Phân tích 18 câu đầu trong đoạn trích Trao duyên hay xuất sắc; Phân tích 18 câu đầu trong đoạn trích Trao duyên hay xuất sắc; Bí quyết gắn mi giả trông dày tự nhiên và không nặng mắt; Núi Đôi Quản Bạ - Chiêm ngưỡng tòa thiên nhiên quyến rũ nơi địa đầu Tổ Quốc
Nhan đề "Trao duyên" của đoạn trích trong Truyện Kiều phần làm sao gây tuyệt hảo với bạn đọc vì chưng sự kỳ lạ lẫm, không giống đời với khác người. Duyên là duyên phận, là sự an bài xích và sắp đặt của ông trời. Sao rất có thể đem ra nói trao đi đổi lại
Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích "Trao duyên" đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều.
Đề bài: Phân tích đoạn trích Trao Duyên "Tố Như có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời" Nỗi oan khiên bỗng đâu ập xuống gia đình,giáng hoạ lên đầu mọi thành viên, đâu trừ người nào.Nhưng dường như Kiều muốn một mình hứng chịu tất cả.
ĐỀ 1: Khái quát Phân tích 12 câu đầu đoạn trích "Đổi nhân duyên". Khai mạc: Dẫn dắt, nêu câu hỏi nghị luận, trích dẫn câu thơ. Nội dung thư: - Hoàn cảnh của Kiều trước đây: gia đình gặp tai ương, Kiều định bán chuộc cha, Kiều có ý nối lại tình yêu với Thúy Vân.
Vay Tiền Nhanh Ggads. Mọi người chắc hẳn đã từng nghe nói đến tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng có lẽ vẫn có người chưa hiểu hết rõ về tác phẩm đặc biệt là đoạn trích “Trao duyên”. Dưới đây là bài tổng hợp về phân tích Trao duyên hi vọng mọi người sẽ hiểu rõ hơn về tác phẩm. Bài viết gồm 2 phần phần 1 phân tích về bài thơ trao duyên, phần 2 là 3 bài văn mẫu trao tích trao duyênI. Tóm tắt sơ lượt về trao duyênTruyện Kiều là một tác phẩm vô cùng dài, do đó mình sẽ tóm tắt về đoạn trích Trao duyên trước để mọi người nắm sơ về nội dung của đoạn tríchTìm hiểu xuất xứĐây là một trong những đoạn ở vị trí mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy đau khổ của Thuý Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt giam do có kẻ vu oan, Thuý Kiều phải bán mình làm vợ Mã Giám Sinh để lấy tiền đút lót quan lại cứu cha và em. Việc nhà đã tạm yên, Kiều mới nghĩ đến tình duyên lỡ dở của mình. Trước hết, nàng nghĩ cho người mình yêu, phận mình dù thế cũng đành, nhưng cảm thấy có lỗi với Kim Trọng. Phải làm thế nào cho người yêu đỡ khổ, suy nghĩ mãi, trong đêm cuối cùng, nàng quyết định nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều. Tìm hiểu bố cục đoạn tríchGợi ýCó thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏĐoạn 1 14 câu đầu Thuý Kiều “trao duyên” cho Thuý nói với em về nỗi bất hạnh của em và trao kỉ vật tình yêu cho 2 20 câu còn lại Tâm trạng Kiều sau khi “trao duyên”.Kiều mong muốn “trở về” gặp lại người hướng đến sự đồng cảm với người trạng tuyệt vọng của Kiều bởi mâu thuẫn trong tâm hồn nàng tình yêu sâu nặng và sự chia biệt vĩnh viễn vẫn không thể giải quyết. Phân tích nghệ thuật xây dựng lời thoại và độc thoại của nhân vậtĐoạn trích là một đoạn lời thoại hoàn chỉnh của nhân vật. Nhưng tính chất đối thoại đổi thay dần theo diễn biến tâm lí và cảm xúc của Kiều. Thoạt đầu xưng hô “chị em”; nhưng từ dòng 15 đến dòng 26, Kiều cảm thấy hạnh phúc đời mình đến đây chấm dứt nên tự xưng mình là “người mệnh bạc”, “người thác oan”, “hồn”. Từ dòng 27 cho đến hết, Kiều như quên đang nói với em, chuyển sang nói với Kim Trọng đang vắng mặt, đó là lời đối thoại đau đớn với người yêu trong tưởng tượng. Dòng 27 – 28 là lời than, dòng 29 – 30 là lời nói với Kim Trọng trong tưởng tượng, dòng 31 – 32 lại là lời than, dòng 33 – 34 lại nói với Kim Trọng trong tưởng tượng. Ở đây, dấu hiệu độc thoại nội tâm là người đối thoại trực tiếp Thuý Vân không hiện diện nữa. Cho dù Thuý Vân vẫn còn ngồi ở đó, nhưng lời của Kiều không hướng tới nàng. Kiều lúc này chỉ sống với chính mình, với người yêu của mình nên lời nàng hướng vào nội tâm, thể hiện nỗi đau đớn đến quằn quại của riêng nàng. Ở vào trạng thái đau đớn đến cùng cực, người ta mất luôn ý thức về thực tại. Lời độc thoại này có tác dụng thể hiện trạng thái tâm lí ấy. Và giọng thơ từ chỗ đau đớn bỗng oà thành tiếng khóc “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! – Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !” Bình luận về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong đoạn tríchGợi ý Nguyễn Du đã thể hiện một nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tinh tế, điêu Kiều nhờ em gái là Thuý Vân thay mình lấy một người mà em chưa thực quen biết. Dù Thuý Vân tính tình đơn giản thế nào thì yêu cầu này cũng quá ư đột ngột, bởi đây là chuyện quan hệ đến cả một đời người. Vì thế lời của Kiều vừa trông cậy, vừa nài ép. Để thể hiện sắc thái này, Nguyễn Du đã rất công phu trong lựa chọn từ ngữ trong ngôn ngữ nhân vật “cậy”, mời em “ngồi lên cho chị lạy”, rồi sẽ “thưa”,…Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ dùng “cậy” mà không dùng “nhờ” vì “cậy” có ý nói khó, vật nài buộc người khác phải nghe mình, không cho từ chối; còn nhờ thì tuỳ ý, không có ý nài ép. Kiều dùng “chịu lời” mà không nói “nhận lời”. “chịu lời” là nhận lời làm việc không do mình tự nguyện, hoặc một việc khó chối từ. Chữ “có” ở đây tuy được dùng với ý ướm hỏi cho lịch sự, nhưng thực chất là ép buộc “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Hai chữ “mặc em” nói rõ cái ý ép buộc. Bi kịch tình yêu của Kiều được thể hiện như thế nào trong đoạn trích?Gợi ýBi kịch ở đây được hiểu là tâm trạng của một người biết rất rõ, ý thức rất rõ về nỗi đau khổ của mình mà không có cách nào để giải thoát được. Với Thuý Kiều, bi kịch tình yêu là nỗi đau về sự tan vỡ tình yêu hoàn toàn do khách quan đưa lại. Kiều thiết tha yêu Kim Trọng và mong muốn tình yêu được đẹp mãi, đã thề nguyền kết duyên trăm năm nhưng vì để cứu gia đình mà nàng phải phụ tình Kim Trọng. Biết rằng như thế sẽ rất đau khổ, trao duyên cho em cũng chỉ là một cách an ủi phần nào tình yêu với Kim Trọng mà thôi. Biết trước đau khổ mà không có cách nào giải thoát. Đó là nguồn cơn tâm trạng bi kịch của nhân vật trong đoạn trích. Bình luận nhan đềGợi ýChữ duyên theo giáo lí của nhà Phật là nguyên do tạo ra số phận, sau này được hiểu rộng hơn là sự định sẵn từ kiếp trước cho tình cảm của hai người thường là tình cảm vợ chồng.Duyên là một khái niệm có tính chất vô hình, do đó trao duyên là một điều khó khăn, nhất là với những người có đời sống nội tâm sâu sắc như Thuý Kiều. Trao duyên là một sự hi sinh rất lớn. Trước đó Kiều đã hi sinh tình yêu để làm bổn phận người con hiếu thảo “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nay, trao duyên cho Vân là hi sinh tình yêu của mình vì hạnh phúc của người mà mình yêu. Do vậy, hành động của Kiều làm cho hình tượng nhân vật trở nên cao cả hơn, đẹp đẽ và đáng khâm phục tiên trước khi có thể viết được một bài phân tích hoàn chỉnh thì không thể thiếu được việc có một dàn ý chi tiết để dễ hiểu để chúng ta có thể làm bài tốt hơn. Mình sẽ hướng dẫn các bạn lập dàn ý phân tích đoạn trích “Trao duyên”II. Lập Dàn ý trao duyên1. Mở BàiGiới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ về đoạn trích Trao duyên vị trí nằm ở đâu, gồm bao nhiêu câu2. Thân Lời nhờ cậy và thuyết phục Thúy Vân của Thúy Kiều 12 câu thơ đầua. Hai câu đầu Lời nhờ cậy của Thúy Kiều* Lời lẽ trao duyên– Cậy + Là một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói >< hiện tại→ Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.– Các hành động+ Nhận mình là “người phụ bạc”+ Lạy cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu+ Hai lần gọi tên Kim Trọng tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.→ Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý♦ Tiểu kết– Nội dung Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hường về tình yêu của mình và Kim Trọng.– Nghệ thuật Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp Kết bài– Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích– Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân Đây là trích đoạn hay và cảm động nhất của Truyện Kiều, đem lại nhiều xúc cảm nơi người đọcB. 3 bài văn mẫu phân tích trao duyênPhân tích trao duyên bài 1Nguyễn Du là nhà thơ tài hoa, nỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại vô vàn tác phẩm xuất sắc nổi bật trong đó là tác phẩm “Truyện Kiều”. Qua tên gọi “ Đoạn Trường Tân Thanh” là tiếng khóc, tiếng kêu xé lòng của những số phận tài hoa bạc mệnh trong xã hội phong kiến mục ruỗng thối nát xưa kia. Tác giả đã khắc họa được hết hình ảnh Kiều một cách vô cùng tinh tế qua đó cuộc đời nhân vật Kiều được tạo ra một cách vô cùng éo lo và khốn khổ. Điều đó thể hiện rõ nét nhất ở đoạn trích Trao duyên, khi mà Kiều phải đau khổ trao đi hạnh phúc riêng tư thầm kín. Có lẽ đây là cảnh tượng đau lòng chưa từng thấy trong nền văn học nhân loại. Nội dung khái quát của đoạn trích là tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng? Thúy Kiều hết sức đau khổ. Cuối cùng nàng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Nguyễn Du đã dựng lại cốt truyện vô cùng sống động dựa vào những chi tiết của truyện Thanh Tâm Tài Nhân. Khi bắt đầu vào cuộc nói chuyện Kiều không đi vào ngay câu chuyện chính mà lại tạo ra một không khí vô cùng trang nghiêm.“Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “để lòng thì phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em“Cậy em, em có chịu lời,Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,Giữa đường đứt gánh tương tư,Keo loan chắp mối tơ thừa mặc, em’’. Cái tinh tế của Nguyễn Du nằm ở chỗ, ông đã không sử dụng từ nhờ mà lại dùng từ “Cậy” , một từ thể hiện niềm tin tuyệt đối của bản thân mình đối với người được nhờ mà người ấy không thể thoái thác được. Chưa dừng lại ở đó tác giả tiếp tục sử dụng từ “lạy” một từ mà chẳng bao giờ người chị lại dành cho em mà lại còn chỉ để trao duyên của mình. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe“Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thềSự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.Kiều rất nhanh chóng kể lại những sự việc xảy ra với mình mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến và biết từ trước,Chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh Chuyện thề nguyền hẹn ước với Kim Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà một người giản đơn như Thúy Vân không bao giờ biết được“Hữu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.Qua câu thơ thì cũng có thể cảm nhận được sự đay nghiến của tác giả Nguyễn Du dành cho xã hội phong kiến xưa khi mà chữ hiếu và tình yêu không thể đặt lên bàn cân mà so sánh được. Một xã hội mà hết sức tàn bạo độc ác khi mà bắt con người lựa chọn những lựa chọn không thể làm khác thậm chí khiến cho bản thân đau khổ tột độ. Và Thúy Kiều cũng không thoát khỏi số phận quái ác như vậy khi mà nàng đã phải từ bỏ tình yêu đẹp đẽ của mình để lựa chọn báo hiếu cho cha. Cho nên hi sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.“Ngày xuân em hãy còn dàiXót tình máu mủ thay lời nước nonChị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Những lời nó thiêng liêng này xuất phát từ tận đáy lòng mà nàng muốn gửi đến cho Kim Trọng một phần vì khá lo cho chàng một phần cũng mong muốn chàng có thể tìm kiếm được hạnh phúc trong sự tan vỡ này. Trong khi bản thân mình đau khổ không lối thoát, thương tích đầy mình vậy mà nàng vẫn có thể suy nghĩ cho người khác. Qủa thật là một cô gái hết sức lương thiện, một cô gái mà xứng đáng được hưởng những hạnh phúc, những điều tốt đẹp nhất trong cuộc đời này. Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỉ vật giữa nàng và chàng Kim“Chiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ, vật này của chung”.Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi một lời nàng nói có thể hiểu được sự đau khổ tột độ nên mới thốt ra được câu nói nặng như chì như thế. Qủa thật là một cô gái hết sức đáng thương. Nàng trao duyên, trao lại những kỉ vật cho em mà trong lòng tràn đầy những uất hận, lòng nghẹn lại thầm trách xã hội sao mà lại vô tình đến thế. Một lời tố cáo vô cùng hùng hồn vang thấu trời xanh của Nguyễn Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn ki vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này“Mai sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy, so tơ phím ra ngọn cỏ lá cây,Thấy hiu hiu gió thì hay chị còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.Có lẽ rằng tâm hồn của Kiều đã chết khi phải đưa ra sự lựa chọn. Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió…”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ. Chìm trong sự đau đớn tột cùng của tình yêu, nàng quên mất trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng.“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôiPhận sao phận bạc như vôi!Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.Có thể cảm nhận được mỗi một lời nàng nói đều đau đến xé lòng. Đứng trước nốt đau tan nát trái tim này nàng chỉ trách mình là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó khiến chúng ta cũng có những động lòng thương cảm. Trong lòng chứa đầy vết thương lòng là vậy nhưng mỗi khi nghĩ đến Kim Trọng nàng luôn mặc cảm dằn vặt bởi vì chính nàng đã phụ chàng. Tất cả những điều đó càng khiến nàng chìm vào những đau khổ của sự tan nát tình cảm.“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong “Đoạn trường tân thanh”. Bằng tất cả sự tinh tế Nguyễn Du đã cảm thấy trong truyện Thanh Tâm Tài Nhân một hình ảnh hết sức cảm động vì vậy ông đã dựng lại đoạn trao duyên một cách hết sức tình cảm và trải đầy nỗi lòng. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây, còn Thúy Kiều thì đau đớn. Sự miêu tả tài tình của tác giả khiến chúng ta có thể cảm nhận được Thúy Kiều là một người lương thiện, luôn suy nghĩ cho người khác mà hi sinh đi bản thân mình. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường chủ nhân khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa tích trao duyên bài 2Tác giả Nguyễn Du là một đại thi hào nổi tiếng của nền văn học nước nhà. Ông là cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Nguyễn Du cùng với một số tác giả nổi tiếng khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,…trong thời kì văn học trung đại tạo thành những tượng đài thơ ca người người kính phục của nền văn học nước nhà. Một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao duyên” là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Kiều được coi là một kiệt tác văn chương của nhân loại được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”, tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu. Mở đầu đoạn trích là hai câu thơCậy em em có chịu lờiNgồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưaTừ lúc bắt đầu Nguyễn Du đã gây cảm giác khó hiểu cho người đọc khi để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô “chị, em”. Từ “cậy” đặt ở đầu câu chứ không phải từ nhờ tạo một cảm giác tiến thoái lưỡng nan và niềm tin tuyệt đối của người chị dành cho người em, một niềm tin không thể thoái thác. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ không cần “thưa” hay “lạy”, nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ “em” được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh “lạy”, “thưa” “cậy” mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác. Thúy Vân bất đắc dĩ lại trở thành bề trên “ngồi lên” để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều dùng tất cả những gì chân thành tha thiết nhất của mình để van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Đối với Kiều bây giờ chẳng ai có thể tin tưởng được như Thúy Vân tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu. Thúy Kiều bày đầu bày tỏ với người em bằng tấm lòng đang bị tổn thương, rỉ máuGiữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn đây người đọc có lẽ phần nào hiểu được từ “cậy” mà ban đầu tác giả dùng thực chất là một lời phó thác dành cho Thúy Vân, một lời nhờ cậy không thể từ chối buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Thúy Kiều mang trong mình thân phận của một người chị cả trong gia đình nên nàng cần có trách nhiệm bảo vệ những người trong gia đình thoái khỏi hoàn cảnh khó khăn như bây giờ. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái “đứt gánh tương tư” ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng “mặc em” giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng KimKể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn câu thơ trên có thể cảm nhận hết được sự thống khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm khi xưa đối với chàng Kim. Có lẽ riêng với bản thân Thúy Kiều thì mối tình đối với Kim Trọng là một tình yêu đẹp đẽ nhất, nồng nàn nhất, đáng nhớ nhất nhưng đối với Thúy Vân mối tình chính là sự trách nhiệm sự ủy thác của chị gái dành cho mình. Thúy Kiều là một người thông minh nàng hiểu hết được những sự băn khoăn, khó xử trong lòng em gái nên quyết định chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh “quạt ước”, “chén thề”, nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Kiều luôn tỏ ra mình không sao nhưng thực chất trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. “Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi ấy. Kiều cũng đã lựa chọn cách tinh tế nhất để cậy nhờ em gái mìnhNgày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương tan Ngậm cười chín suối hãy còn thơm thật là cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều đang đến tuổi cập kê, Kiều đã nhanh ý chọn điểm này để đánh vào tâm lí Thúy Vân trong chuyện nhờ cậy Vân nối tiếp mối tình đang còn dang dở của mình. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết “Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Có lẽ khi Kiều quyết định lựa chọn con đường bán mình chuộc cha cũng đã có những dự cảm không lành về tương lai mịt mù tăm tối của mình. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Từng lời nói của nàng càng khiến người ta thương cảm cho số phận nghiệt ngã của mình, một số phận phải chịu sự chia lìa với gia đình, phải từ bỏ tình yêu cá nhân chẳng có gì đau khổ hơn thế nữa. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi “thịt nát xương tan”, nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhấtChiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây kỉ vật được coi là vật định tình của nàng với Kim Trọng giờ đây nhìn lại sao tránh khỏi sự đau lòng mất mát. Nhưng ngay lúc này đây Kim Trọng lại chẳng biết gì về sự tình bởi chàng đang ở xa không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu “Duyên này thì giữ, vật này của chung” có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm “của chung”, của cả hai chị em. Có thể nhiều người sẽ nghĩ Thúy Kiều ích kỉ vì khi đã quyết định trao duyên đi mà trong lòng vẫn còn muốn giữ lại nhưng cũng dễ hiểu thôi bởi chẳng ai có thể đồng ý san sẻ tình yêu của mình với một người khác. “Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”, một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Xét trên phượng diện tình cảm sự ngập ngùng xen lẫn một chút ích kỉ gì đó của Thúy Kiều lại hết sức dễ hiểu bởi lẽ Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim TrọngMai sau dù có bao giờ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này, Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin chén nước cho người thác nói tràn đầy sự oán hận não nề của Kiều đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy một người con gái , không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Nhưng có lẽ nàng đã dồn tất cả sự bế tắc, não nền trong câu nói “Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan”, hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc. Chỉ khi bị dồn đến mức đường cùng như thế nào mà một người con gái tuổi mười tám, một độ tuổi xanh non mơn mởn lẽ ra phải yêu đời nhưng lại đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn. Trong khi đang tâm sự với Thúy Vân, Kiều cũng không quên gửi gắm đến Kim Trọng những dòng đầy tha thiết và đau lòngBây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ vẻ bề ngoài giống như nàng đang thật sự tâm sự với Kim Trọng nhưng không đó là những dòng độc thoại bởi lẽ người mà nàng đem lòng yêu thương hiện giờ không ở đây, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố “gương gãy”, “trâm tan”, những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Cho đến cuối cùng mục đích của cuộc trao duyên này có lẽ cũng là do mối tình nặng nghĩa của Kiều đối với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. “Muôn vàn ái ân” nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn “tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”. Song song với sự nối tiếc của tình yêu Kiều cũng khóc thương cho số phận hẩm hiu của mình Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn “bạc như vôi”, “nước chảy, hoa trôi lỡ làng”, sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định ếng gọi xé lòng ” Hỡi Kim Lang!” thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi “lang” là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Nhiều người đọc lại cảm thấy sự phi lí bởi lẽ Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân nhưng vẫn gọi bằng “lang” Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội trích “ Trao duyên” có lẽ là phần thành công nhất của tác giả trong tổng thể tác phẩm, bởi lẽ nó như bộc lộ hết được từng cung bậc cảm xúc mà nàng Kiều đã phải trải qua từ lúc quyết định bán mình để cứu cha cho đến khi phải rời bỏ người mình yêu thương. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Nhờ sự tài tình của tác giả, mà khiến người đọc có thể cảm thông được số phận lênh đênh trôi dạt của Thúy Kiều. Qua “Trao duyên”, Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh tích trao duyên bài 3Đối với tất cả mọi người khi nhắc đến cái tên “ Truyện Kiều” có lẽ chẳng cảm thấy xa lạ nữa. Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”. “Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?Trong cuộc đời này điều đau khổ nhất đó là từ bỏ người mà mình yêu thương, nhưng Thúy Kiều lại không thể làm khác. Nàng phải hi sinh tình cảm của riêng cá nhân mình để bán thân mình chuộc cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng“Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”Như mọi người cũng biết hai từ “cậy” và “ nhờ” là hai từ đồng nghĩa, nhưng ở trường hợp này tác giả đã cho thấy sự tinh tế của mình khi sử dụng từ “ cậy” Ngoài ý nghĩa nhờ vả, mong muốn người khác giúp đỡ mình thì từ “cậy” còn hàm chứa cả lòng tin tưởng, sự hi vọng vào người được nhờ vả của chủ thể. Thúy Kiều và Thúy Vân vốn là hai chị em ruột thịt nên Kiều đã dốc hết niềm tin của mình dành cho em gái để tiếp tục mối nhân duyên còn đang dang dở đối với chàng Kim. Thanh trắc ở từ “cậy” khiến âm hưởng câu thơ trở nên nặng nề hơn, đồng thời cũng thể hiện mức độ quan trọng của việc nhờ vả. Thông thường khi ai đó nhờ vả chúng ta chúng ta có quyền chấp hoặc từ chối nhưng trong trường hợp này Thúy Vân đã được đọc trong một trường hợp tiến thoái lưỡng nan không thể từ chối được. “Chịu lời” là một sự chấp nhận bắt buộc, không còn sự lựa chọn nào khác. Biết mình đã khiến Thúy Vân rơi vào hoàn cảnh khó xử và có lẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi nên nàng đã dùng lễ nghi trang trọng để bày tỏ nỗi lòng của mình với em. “Lạy”, “thưa” là những lễ nghi trang trọng thường dùng đối với các bậc bề trên trong xã hội phong kiến, đồng thời hành động ấy cũng được dành cho những bậc ân nhân, những người có ơn đối với mình. Ở đây Thúy Kiều đã coi Thúy Vân là người mà mình sẽ mang suốt cuộc đời này cho nên việc sử dụng những từ ngữ trên là một điều hết sức bình thường. Chuyện tình yêu của nàng đang tốt đẹp thì bỗng nhiên tai ương xảy đến“Giữa đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”“Gánh tương tư” bị “đứt” giữa đường thật đột ngột, đây là điều mà Thúy Kiều không ngờ tới. Hình ảnh “gánh tương tư” chính là ẩn dụ cho mối tình thắm thiết đó. Đêm nay chính là đêm cuối cùng mà nàng được ở nhà bởi vì từ ngày mai nàng đã trở thành vợ lẽ của người khác và phản bội lại mối tình tuyệt đẹp của bạn thân cũng như chính nàng đã phụ bạc chàng Kim, tất cả những gì đẹp đẽ đó chỉ còn trong quá khứ bây giờ không thể tiếp tục được nữa. Nhưng Thúy Kiều không phải là kẻ bạc tình, bạc nghĩa, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Có lẽ đối với Thúy Kiều mối tình đối với Kim Trọng được coi là một mối tình tuyệt đẹp nhưng đối với Thúy Vân lại có sự khác biệt bởi vì Vân vốn chẳng có tí tình cảm gì đối với chàng Kim cũng như không liên quan đến mối tình Kim – Kiều. Vậy mà giờ đây, nàng phải thay chị kết duyên với một người mà mình không hề yêu, hoàn cảnh ấy thật khó xử. Dân gian có câu “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người không nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì không ai có thể giúp nàng chuyện này. Chỉ có Thúy Vân mới có thể thay Kiều kết duyên cùng chàng Kim và cũng chỉ có Thúy Vân mới khiến nàng yên tâm gửi gắm mối duyên tình. Thúy Kiều để “mặc em” quyết định nhưng thực chất là phó thác, ép buộc Thúy Vân phải đồng ý giúp đỡ. Nàng muốn Thúy Vân hãy dùng thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan để nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Để tăng tính thuyết phục em gái Thúy Kiều còn đưa ra những lời lẽ vô cùng thuyết phục“Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình hai lẽ khôn bề vẹn hai”Thúy Kiều và Kim Trọng yêu nhau một cách hết sức bình thường, giản dị, lãng mạng như bao cặp đôi khác. Họ thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng như vậy. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hẹn. Điệp từ “khi” được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật khăng khít, sâu nặng. “Quạt ước”, “chén thề” gợi nhắc nàng nhớ đến đêm thề nguyền thiêng liêng ấy“Tiên thề cùng thảo một chương Tóc mây một món dao vàng chia đôi”Lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” đến nay đã không thể thực hiện bởi “sóng gió bất kì”. Cuộc đời sóng gió đã đẩy Thúy Kiều vào trong hoàn cảnh chỉ được một trong hai chữ hiếu hoặc chữ tình. Với sự hiếu thảo của một người con, Thúy Kiều đã hi sinh hạnh phúc cá nhân của mình để chọn chữ hiếu còn chữ tình thì nàng đã nhờ cậy Thúy Vân giúp đỡ mình. Trong một xã hội phong kiến mục ruỗng như thời xưa hiếm ai có thể thực hiện được cả hai chữ hiếu và chữ tình, Thúy Kiều cũng vậy nàng thật vị tha nàng chỉ một lòng suy nghĩ cho người khác còn mình thì chấp nhận hết mọi sự đau khổ giày vò. Sự lựa chọn chữ hiếu của nàng cũng vô cùng hợp tình hợp lí vì nàng hiểu được công ơn dưỡng dục cả cuộc đời mà cha mẹ đã dành cho bản thân mình, nên nàng thà chịu đau khổ cũng muốn họ được hạnh phúc đong đầy. Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng“Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”Thúy Vân vẫn còn trẻ hơn Thúy Kiều rất nhiều, ngày xuân vẫn dài, và Thúy Vân là một lựa chọn vô cùng chính xác để giúp Thúy Kiều hoàn thành được tâm nguyện. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả “tình máu mủ”, tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một thế giới khác, Kiều vẫn vui vẻ, mãn nguyện vì em đã “chắp mối tơ thừa” giúp mình. Tâm trạng ấy đã được Nguyễn Du thể hiện qua thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” Mặc dù vẫn là một người con gái mười tám tuổi độ tuổi hết sức trẻ trung yêu đời nhưng đã nghĩ đến việc ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được “thơm lây” với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc đến cái chết của chính mình, Thúy Kiều đau đớn biết nhường nào. Trong lòng đầy sự tiếc nuối nhưng Thúy Kiều cũng đành phải trao lại những kỉ vật tình yêu cho em mình. “Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên. Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.AI ai cũng nói mối tình đầu là mối tình đẹp đẽ nhất, khiến người ta nhớ lâu nhất nhưng ngược lại cũng khiến cho người ta đau khổ nhất. Qủa không sai mối tình đầu với Kim Trọng đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà bây giờ lỡ dở, làm sao Thúy Kiều không khỏi xót xa, dằn vặt?Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân. Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim – Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu mà nó trở thành “của chung”. Dường như không thể kìm nén nỗi lòng được nữa nàng đã bật khóc nghẹn ngào, tiếng khóc của một người con gái mang số phận đáng thương. Nàng đau quặn lòng trao duyên cho người khác nhưng nàng đâu có muốn làm như vậy chỉ vì số phận đưa đẩy ép buộc nàng phải như vậy. Mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền và những giây phút Kiều gảy đàn bên Kim Trọng giờ đây đã trở thành quá khứ – một quá khứ gợi bao nỗi xót xa, tiếc nuối. Lí trí và tình cảm đã có sự mâu thuẫn khi nàng muốn giữ lại chữ “duyên” cho bản thân mình làm của riêng. Nàng đã hi sinh hạnh phúc cả đời của mình để chọn chữ hiếu như vậy thì nàng muốn giữ lại chữ duyên cũng hết sức hợp tình hợp lí ? Nàng hình dung ra viễn cảnh Thúy Vân và Kim Trọng “nên vợ nên chồng”, chung sống hạnh phúc còn mình là “người mệnh bạc”, số phận bạc bẽo, không may rằng nàng đã trao duyên cho Thúy Vân nhưng trong lòng đầy những sự ám ảnh về cái chếtMai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ gió cây, Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt, khuất lời, Rảy xin chén nước cho người thác oan”.Lời nhắn nhủ của nàng khiến cho người khác cảm thấy thật nghẹn lòng trước sự đau lòng tức tưởi ấy. Nàng đã mường tượng ra thảm cảnh của mình nhưng ngay cả khi trở thành một linh hồn thì nàng vẫn mang theo lời thề nguyền cùng Kim Trọng. Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân bồ liễu” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu đuối, mỏng manh không còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu đôi lứa. Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho linh hồn oan khuất, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan. Nàng hiểu rõ bản thân mình hơn ai hết“Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân. Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi! Phận sao phận bạc như vôi Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.Từng sự dằn vặt hiện rõ trong từng câu từng chữ. Qua đoạn trích trao duyên này Nguyễn Du đã cho người khác thấy nghệ thuật miểu tả tâm lí của mình xuất sắc cỡ nào. Đoạn trích đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. Hi vọng bài tổng hợp phân tích đoạn trích Trao duyên trên có thể giúp mọi người hiểu rõ hơn về sự tài hoa lỗi lạc của đại thi hào Nguyễn DuBài viết liên quan Phân tích chiếc thuyền ngoài xa văn mẫu Cực Hay update 20206 Bài văn thuyết minh về cây bút bi hay đạt điểm 10 của Bộ GD7 Bài văn thuyết minh về con trâu hay đạt điểm 10 của Bộ GD2 Bài văn mẫu Phân tích câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến đạt 10 ĐiểmTop 10 những bài văn tả cây phượng, hoa phượng hay đạt điểm 10
Những bài văn mẫu phân tích đoạn trích Trao duyên trích Truyện Kiều, Nguyễn Du sẽ giúp các em thấy được bi kịch tình yêu, tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều trước sóng gió cuộc đời và nhân cách cao đẹp của nàng được thể hiện trong đoạn trích. Bài viết liên quan Phân tích đoạn trao kỷ vật trong trích đoạn Trao Duyên Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên, mẫu số 2 Vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn Trao duyên Sơ đồ tư duy Trao duyên Dàn ý phân tích bài thơ trao duyên, mẫu số 3 Đề bài Anh/chị hãy Phân tích đoạn trích Trao duyên, trích Truyện Kiều của Nguyễn văn mẫu Phân tích bài Trao duyênI. Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên Chuẩn1. Mở bàiGiới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích “Trao duyên”.2. Thân bàia. Khái quát chungThuộc phần II – Gia biến và lưu lạc, từ câu 723 đến câu 756, sau khi quyết định bán mình chuộc cha, Kiều trao duyên cho Thúy Phân tích “Trao duyên”* Mười hai câu thơ đầu Thúy Kiều thuyết phục Thúy Vân nhận lời trao duyên- Hai câu thơ đầu Thúy Kiều dùng những lời lẽ “cậy”, “chịu lời”, “mặc em” và hành động trang trọng “lạy”, “thưa” để bày tỏ lời khẩn cầu, nhờ cậy của mình đối với Thúy Sáu câu thơ tiếp Nàng giãi bày, chia sẻ chuyện tình yêu của mình và Kim Trọng, cũng như hoàn cảnh éo le hiện tại.+ “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề” tình yêu đẹp đẽ, thiêng liêng giữa Thúy Kiều và Kim Trọng.+ “Giữa đường đứt gánh tương tư” Vì gia đình gặp biến cố nên Kiều đã hi sinh chữ “tình” để làm tròn chữ “hiếu”.- Bốn câu tiếp Thúy Kiều đưa ra lí lẽ thuyết phục Thúy Vân nhận lời nối duyên+ “Tuổi xuân em hãy còn dài”+ “Xót tình máu mủ”+ Chỉ cần Thúy Vân nhận lời nối duyên thì Thúy Kiều có “thịt nát xương mòn” cũng “ngậm cười”.* Mười bốn câu thơ tiếp theo Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân- “Chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” những kỉ vật tình yêu thiêng liêng của Thúy Kiều và Kim Trọng, thể hiện mối tình sâu đậm, gắn Lời trao duyên “Duyên này thì giữ, vật này của chung” thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm, vừa níu giữ vừa dứt khoát trao gửi mối tình dang Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân+ Những hình ảnh gợi đến cái chết “hồn”, “dạ đài”, “thác oan” Thể hiện sự đau đớn đến tột cùng của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ, dở dang.+ “Hồn còn mang nặng lời thề” Dù có chết đi thì Thúy Kiều vẫn mang nặng lời thề với chàng Kim.→ Cho thấy tình yêu sâu nặng nàng Kiều dành cho Kim Trọng.* Tám câu thơ cuối Tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều- Ý thức về bi kịch hiện tại+ “Trâm gãy gương tan” chỉ sự chia lìa, tan vỡ.+ “Phận bạc như vôi” ý thức về số phận bi kịch, bất hạnh.+ “Nước chảy hoa trôi” số phận long đong, chìm Nỗi đau khi phụ tình cảm chàng Kim+ “Trăm nghìn gửi lạy tình quân” Cái lạy tạ lỗi và cũng là lời vĩnh biệt nghẹn ngào.+ Các từ cảm thán “ôi”, “hỡi” nhấn mạnh sự chua xót, bẽ bàng.+ Từ “phụ” thể hiện nỗi đau khi tình cảm dở dang, nàng cho rằng chính mình đã phụ chàng Kim.→ Nhân cách cao đẹp của Thúy Đánh giá- Nội dung Đoạn trích đã thể hiện bi kịch tình yêu, số phận bất hạnh của Thúy Kiều, đồng thời qua đó khắc họa nổi bật nhân cách cao đẹp của Nghệ thuật Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc+ Sử dụng hình ảnh ước lệ, tượng trưng+ Sử dụng thành công độc thoại nội tâm3. Kết bàiKhẳng định giá trị đoạn trích, tác phẩm.>> Xem dàn ý chi tiết và các mẫu Dàn ý phân tích đoạn trích Trao duyên khác tại Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Trao duyên1. Phân tích đoạn trích Trao duyên, mẫu số 1 chuẩnBằng sự xót thương, đồng cảm cùng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật Thúy Kiều - hình tượng đại diện cho vẻ đẹp, số phận đau khổ, bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Trích đoạn “Trao duyên” từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm đã thể hiện rõ điều này. Đây là những câu thơ có vị trí “bản lề”, đánh dấu sự mở đầu, bước ngoặt định mệnh của 15 năm lưu lạc trong cuộc đời của Thúy hết, Thúy Kiều đã thuyết phục Thúy Vân bằng những hành động, lời nói, cử chỉ sâu sắc, tinh tế cùng lí do trao duyên hợp tình, hợp lí. Là người con gái thông minh, nhạy bén, khi trao duyên cho em, Thúy Kiều đã có những lời lẽ, hành động đặc biệt khác thường“Cậy em, em có chịu lời,Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưaGiữa đường đứt gánh tương tư,Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ ngữ miêu tả hành động để tái hiện không gian của sự kiện “trao duyên” “cậy” thể hiện sự nhờ vả, tin cậy, “chịu lời” mang sắc thái bị nài ép mà chấp nhận, “mặc” mang ý nghĩa phó thác, phó mặc. Qua hệ thống ngôn từ tinh tế, khéo léo, sắc sảo đó, chúng ta có thể thấy được Kiều là một người hết sức khôn khéo. Hành động của nàng cũng thể hiện sự trang trọng em - “ngồi lên”, chị - “lạy”, “thưa”. Những từ ngữ trên đã tái hiện thành công không khí trang trọng của sự kiện “trao duyên”, đồng thời Kiều cũng thấu hiểu rằng nàng là người chịu ơn, mang ơn đối với Thúy Vân. Để thuyết phục em, Kiều đã gợi lại tình yêu tươi đẹp của mìnhKể từ khi gặp chàng Kim ,Khi ngày quạt ước, khi đêm chén giả đã điểm xuyết những kỉ niệm của mối tình Kim - Kiều khắc cốt ghi tâm qua những hình ảnh ước lệ “quạt ước”, “chén thề”. Nhưng đứng trước bi kịch tình yêu tan vỡ “đứt gánh tương tư”, nàng đã thuyết phục em bằng những lí lẽ “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Vì bán mình chuộc cha, nàng đã phần nào làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nhưng lại đánh mất mối tình cùng Kim Trọng. Không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, nàng vin vào tuổi xuân của em và tình chị em máu mủ để trao lại mối tình còn dang dở “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Như vậy, qua những câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được Kiều đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục, thấu tình đạt lí, thể hiện nàng là người con gái tinh tế, sắc tích bài Trao duyên để thấy tâm trạng đau khổ của nàng Kiều khi trao duyênSau khi lay động Thúy Vân bằng cả lí trí và trái tim, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em chiếc hoa, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ về kỉ niệm tình yêu sâu nặng, thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Chúng ta có thể cảm nhận được, những kỉ vật ấy đã trở thành sinh mệnh của tình yêu, sinh mệnh của sự sống trong trái tim Thúy Kiều “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. “Của tin” là tín vật minh chứng cho tình yêu giữa Kim và Kiều, “của chung” là của Kim Trọng - Thúy Vân - Thúy Kiều. Nói về điều này, Hoài Thanh đã viết “Của chung là của ai. Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ thế!”, “Đó là của chung, của chàng, của chị, hay còn là của em… Đó là của tin để lại cho nhau. Hồn chị gửi cả trong ấy”. Với tâm trạng đầy tiếc nuối, xót xa, cách Thúy Kiều trao kỉ vật cho em đầy sự nâng niu, trân trọng. Nàng chợt nhận ra trao đi kỉ vật là vĩnh biệt tình yêu. Biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu xót xa thể hiện qua hai từ “của tin”, “của chung”. Kiều như muốn níu giữ lại hương vị tình yêu trong niềm tiếc nuối vô hạn. Cấu trúc câu thơ thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm vừa níu giữ, vừa dứt khoát gửi trao mối tình dang dở gửi trao những kỉ vật thiêng liêng và trao tình duyên cho em. Biết bao tiếc nuối, xót xa được thể hiện qua tâm trạng của Thúy Kiều kỉ vật gợi kí ức, kí ức gợi kỉ niệm, trao đi kỉ vật nhưng vẫn không quên được mối tình sâu sắc sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy, so tơ phím ra ngọn cỏ lá cây,Thấy hiu hiu gió thì hay chị vềHồn còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc đài cách mặt khuất lời,Rưới xin giọt nước cho người thác khi trao đi kỉ vật tình yêu và hồi tưởng lại những kí ức tươi đẹp trong quá khứ, Kiều đau đớn, xót xa quay trở về thực tại. Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch tình yêu dang dở, tan vỡ và bi kịch thân phận trái ngang, lênh đênh trôi nổi. Kiều nói với Vân như nói với chính mình. Hàng loạt từ ngữ gợi tả về cái chết được sử dụng để thể hiện dường như với nàng lúc này, viễn cảnh tương lai thật mịt mờ, xa xăm. “Mai sau dù có bao giờ” - câu thơ như một tiếng than, lại như một câu hỏi xoáy vào tâm can, vừa thể hiện sắc thái lo lắng, vừa hi vọng, nhưng hi vọng vừa lóe lên chợt hóa thành ảo vọng “Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”. Những kỉ vật tình yêu hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi đau khắc sâu vào tâm trạng thực tại của mình. Kiều nhận ra tương lai thật mịt mù, mơ hồ, nàng tưởng tượng ra cái chết trong tương lai, linh hồn cũng không siêu thoát được vì vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Kiều nghĩ đến viễn cảnh tang thương khi mất đi tình yêu, bởi với nàng, mất đi sự tự do là mất đi lí tưởng, mất đi tình yêu chính là mất đi tri kỉ. Say đắm trong tình yêu, Kiều đã cột chặt sinh mệnh của mình cùng mối tình tươi đẹp đó. Trong khoảnh khắc ấy, chúng ta có thể cảm nhận được tận sâu nỗi đau trong trái tim của nàng. Tuy nhận ra bi kịch, tuyệt vọng và đau đớn, nhưng Kiều vẫn khao khát được trọn vẹn trong tình yêu đi sâu vào dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều càng chìm sâu vào bi kịch, nàng không còn tỉnh táo nữa mà tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng“Bây giờ trâm gãy bình tan,Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy sao phận bạc như vôi?Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ quay trở về thực tại và ý thức sâu sắc về bi kịch số phận qua hàng loạt thành ngữ “trâm gãy gương tan” chỉ sự chia lìa, tan vỡ, “phận bạc như vôi” nhấn mạnh sự bạc bẽo, bất hạnh, “nước chảy hoa trôi” thể hiện số phận long đong, chìm nổi. Trong trích đoạn “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Thúy Kiều không chỉ đối thoại với Thúy Vân khi trao duyên, đối thoại với chính mình khi hồi tưởng về quá khứ, ngẫm về số phận mà còn đối thoại với chàng Kim trong sự thức tỉnh về bi kịch hiện tại “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đó không phải là cái lạy của kẻ bề dưới đối với bề trên, càng không phải là cái vái lạy của kẻ chịu ơn, mà là cái lạy tạ lỗi nhưng cũng là lời vĩnh biệt tức tưởi nghẹn ngào, thể hiện Thúy Kiều hướng về Kim Trọng trong sự xót xa, cầu khẩn. Nàng tưởng tượng chàng Kim đang ở trước mắt và bất giác chìm sâu vào tuyệt vọng “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”Hai câu cuối vỡ òa thảng thốt, Kiều đã không kìm nén được lòng mình mà thốt lên lời than vãn bi ai. Các từ cảm thán “ôi”, “hỡi’ đã nhấn mạnh nàng gọi tên Kim Trọng hai lần trong sự chua xót, bẽ bàng. Đặc biệt, từ “phụ” đã nhấn mạnh nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Dù là người mệnh bạc, bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu nhưng Kiều tự nhận mình là kẻ “phụ bạc”. Nhịp thơ 3/ 3 và 2/2/2 như tiếng nấc nghẹn ngào thể hiện sự đau đớn. Đoạn thơ đã làm nổi bật hơn nữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cùng tình yêu sâu nặng của Thúy vậy, qua đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được tình yêu sâu nặng cùng bi kịch của Thúy Kiều. Đối với nàng, tình và hiếu luôn thống nhất chặt chẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du. 2. Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Trao duyên, mẫu số 2 ChuẩnĐại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,... tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên "Truyện Kiều". Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với emCậy em em có chịu lờiNgồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưaNgay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô "chị, em". Từ "cậy" đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn cách nào khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ không cần "thưa" hay "lạy", nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ "em" được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh "lạy", "thưa" "cậy" mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác. Thúy Vân trở thành bề trên, "ngồi lên" để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều tha thiết van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớnGiữa đường đứtt gánh tương tưKeo loan chắp mối tơ thừa mặc emKể từ khi gặp chàng KimKhi ngày quạt ước khi đêm chén thềSự đâu sóng gió bất kìHiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn đây, người đọc bỗng hiểu ra cái nhờ cậy ban đầu của Thúy Kiều thực ra là một lời phó thác, buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Với thân phận là chị gái, chị cả trong nhà, Kiều cảm thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình qua cơn hoạn nạn. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái "đứt gánh tương tư" ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng "mặc em" giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng KimKể từ khi gặp chàng KimKhi ngày quạt ước, khi đêm chén thềSự đâu sóng gió bất kìHiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh "quạt ước", "chén thề", nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. "Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai", một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ emNgày xuân em hãy còn dàiXót tình máu mủ thay lời nước nonChị dù thịt nát xương tanNgậm cười chín suối hãy còn thơm lâyXét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết "Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây". Dường như khi chọn con đường bán mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mịt mờ, dự cảm không lành về số phận nghiệt ngã. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi "thịt nát xương tan", nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhấtChiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ, vật này của em nên vợ nên chồngXót người mệnh bạc ắt lòng chẳng người còn chút của tin,Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh ấy, khi Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu "Duyên này thì giữ, vật này của chung" có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm "của chung", của cả hai chị em. Câu nói có một chút con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với ai khác. "Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên", một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Có người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, rành rành thân phận nhờ vả mà còn đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng nhìn về mặt tình cảm, sự ngập ngừng, không rõ ràng từ Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim TrọngMai sau dù có bao giờĐốt lò hương ấy, so tơ phím này,Trông ra ngọn cỏ lá câyThấy hiu hiu gió thì hay chị còn mang nặng lời thềNát thân bồ liễu, đền nghì trúc đài cách mặt khuất lờiRưới xin chén nước cho người thác nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ thể hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự bế tắc và khổ đau trong lòng nàng chất chứa trong từng câu nói. "Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan", hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc. Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiếtBây giờ trâm gãy gương tan,Kể làm sao xiết muôn vàn ái nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!Phận sao phận bạc như vôiĐã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làngƠi Kim lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố "gương gãy", "trâm tan", những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. "Muôn vàn ái ân" nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn "tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!".Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình. Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn "bạc như vôi", "nước chảy, hoa trôi lỡ làng", sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định . Tiếng gọi xé lòng " Hỡi Kim Lang!" thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi "lang" là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là "lang", là chồng, Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội trích "Trao duyên" đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân "Trao duyên", Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh Phân tích bài Trao duyên, mẫu số 3 chuẩnThiên “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du quả thực là một kiệt tác văn chương của nhân loại, tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn dưới dạng các trích đoạn tiêu biểu. Một trong những đoạn trích tiêu biểu cho hoàn cảnh éo le, dang dở tình duyên của Thúy Kiều chính là “Trao duyên”. Tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa một cách chân thực, rõ nét tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong từng phân cảnh, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận sâu đề “Trao duyên” của đoạn trích phần nào gây ấn tượng với người đọc bởi sự lạ lẫm, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và sắp đặt của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi đổi lại cho nhau dễ dàng như thế. Chính cái lạ lẫm của nhan đề đã gợi ra những dự cảm về nghịch cảnh cũng như tính éo le trong đoạn trích này. Sự nghịch lý chính nằm ở hành động trao duyên của Thúy Kiều, nàng muốn đem duyên tình của mình với Kim Trọng trao lại cho Thúy Vân, nhờ em nối tiếp nhân duyên trả nghĩa ân tình cho Kim Trọng.“Cậy em em có chịu lờiNgồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”Những từ ngữ như “cậy, chịu, ngồi lên, lạy, thưa”, được tác giả sử dụng mang giá trị gợi tả và gợi cảm cực đắt. Thúy Kiều không đơn giản là nhờ vả mà là trông cậy vào Thúy Vân, chỉ có Vân mới giúp được Kiều trong hoàn cảnh này, nàng chấp nhận quỳ lạy và thưa gửi với chính em của mình, chỉ mong em có thể chấp nhận lời đề nghị khó khăn nhưng thiêng liêng này. Thúy Kiều trong hoàn cảnh éo le nhưng vẫn thể hiện được sự khéo léo, tài tình và thông minh, coi em như ân nhân của mình bằng tất cả sự kính trọng. Rồi nàng kể lại mối tình với chàng Kim, giãi bày lý do vì sao phải trao “mối tơ thừa” đó cho Thúy Vân, chính vì sóng gió ập đến bất ngờ với gia đình khiến nàng đành từ bỏ chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Nàng mong Vân sẽ vì tình nghĩa chị em máu mủ, thấu hiểu hoàn cảnh gia đình cũng như tình nghĩa giữa nàng và Kim Trọng mà chấp nhận mang vào mình mối tơ thừa duyên tình của Kiều. Lời nói của Kiều đã thấu đạt hết lý hết tình, Vân có muốn từ chối cũng khó mặc dù Kiều biết đó cũng là điều thiệt thòi và khó xử cho Vân. Có được sự chấp thuận của Vân, Kiều dù chết cũng cảm thấy yên lòng và mãn nguyện, “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, cái chết cũng thể hiện sự cảm kích trước những thiệt thòi mà em phải chịu thay mình. Sau khi đã nói lời trao duyên, đến lúc Kiều trao lại những kỉ vật nàng và Kim Trọng đã từng có với nhau, đó là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền“Chiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ vật này của chung”Đem những kỉ vật tình yêu thiêng liêng trao đi, Kiều như trao đi những thứ quan trọng nhất của cuộc đời mình, bây giờ duyên nàng có thể giữ nhưng kỉ vật đã thành của chung. Nỗi buồn xót xa phải trao đi cho thấy nàng và Kim Trọng đã yêu nhau sâu đậm, nồng nàn và chung thủy một lòng. Mất đi tình yêu, trao đi kỉ vật, cuộc sống của Kiều đã không còn gì đáng luyến tiếc hơn nữa, sống cũng như chết, nhưng nàng dù có chết vẫn giữ trọn lời thề son sắt“Hồn còn mang nặng lời thềNát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”Trao duyên là đoạn trích thể hiện rõ nét nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật của Nguyễn DuKiều đã tuyệt vọng hết sức, chẳng còn hy vọng nào cho tình yêu và số phận của mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ đi về đâu, sống chết ra sao nàng không thể biết được, chỉ mong có chết đi rồi người trên dương thế sẽ hiểu cho tấm lòng và đồng cảm với mình. Giờ đây những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim lại trở thành những nhát dao cứa sâu vào nỗi đau khổ của nàng“Bây giờ trâm gãy bình tanKể làm sao xiết muôn vàn ái ân”Tất cả tình duyên đã tan vỡ, dở dang, nàng Kiều vô cùng đau đớn khi phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân” mong chàng sau này sẽ hiểu cho hoàn cảnh và nỗi khổ của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình.“Ôi Kim lang! Hỡi Kim langThôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”Tình nghĩa sâu nặng coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong sự tuyệt vọng, tiếng gọi chan chứa nỗi niềm đắng cay và xót xa, chàng Kim nơi xa xôi kia chưa hề biết chuyện gì, nàng nơi quê nhà đã phải vì hoàn cảnh mà phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất đi cả tương lai hạnh thể nói, trích đoạn “Trao duyên” là một trong những trích đoạn hay và gây xúc động mạnh nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng kết hợp với những từ ngữ mang giá trị gợi cảm cao đã khắc họa tâm trạng Thúy Kiều trong lúc trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ của Kiều, tiếc thương cho mối tình trời ban đồng thời cũng thương cảm với số phận bạc mệnh của Phân tích đoạn trích Trao duyên, mẫu số 4 chuẩnNhắc đến Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” - kiệt tác văn chương của nhân loại. Những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và thiên “Truyện Kiều” nói riêng đã đóng góp một phần quan trọng đối với nền văn học, văn hóa nước nhà. Đoạn trích “Trao duyên” được trích trong tác phẩm từ câu thơ 723 đến câu 756, nói về bối cảnh Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đây là một trích đoạn đầy nghịch cảnh éo le và bi kịch, gây sự xúc động mạnh trong lòng người đoạn trích, cái duyên ở đây chính là mối duyên tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình rơi vào bi kịch, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và em, không còn có thể giữ mối duyên đó với chàng Kim được nữa. Thúy Kiều đành đem duyên đó của mình trao lại cho em gái là Thúy Vân, ngưỡng mong em sẽ chấp nhận và thay mình trả mối nghĩa tình cho chàng Kim. Mở đầu là câu thơ mang nặng sự nhờ vả, trông cậy của Kiều dành cho Vân“Cậy em em có chịu lời,Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”Từ “cậy” vừa thể hiện sự tin cậy lại vừa nhấn mạnh Vân là sự lựa chọn duy nhất, hợp lý nhất trong hoàn cảnh đó của Kiều, kết hợp với hành động “lạy”, “thưa” dường như Kiều đang trong trạng thái đau đớn, trong tình cảnh của kẻ mang ơn. Kiều tuy là chị nhưng lại quỳ lạy, thưa gửi với em của mình, có phần trái ngược với giáo lý phong kiến nhưng lại đúng với hoàn cảnh éo le, trước khi nhờ cậy Kiều đã kính cẩn, trạng trọng coi Vân như người ân nhân của mình. Điều đó cũng dự báo việc nàng nhờ cậy là việc rất quan trọng, khó khăn, chính vì vậy Kiều phải hết lòng giãi bày, tâm sự và thuyết phục Vân hiểu và chịu cho mình“Giữa đường đứt gánh tương tư…Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”Trong đoạn thơ, Kiều nhắc đến “mối tơ thừa” chính là mối tơ tình duyên của nàng với chàng Kim, đối với Vân mối tình duyên đó chẳng có ý nghĩa, chỉ là thừa thãi bởi vốn Thúy Vân và Kim Trọng đâu có tình cảm gì. Phải mang vào mình mối thừa ấy là một thiệt thòi của Vân, biết vậy nhưng Kiều cũng chỉ “mặc em”, bởi nàng cũng không có cách nào, không có lựa chọn nào khác. Nàng còn kể về mối tình với chàng Kim để mong em hiểu cho nỗi lòng, nghĩa tình sâu nặng giữa mình và Kim Trọng, nếu không trả khó có thể trọn vẹn, chỉ bởi sóng gió ập đến gia đình mà nay đành phải đứt gánh giữa đường. Thúy Kiều rất thông minh khi những lí lẽ nàng thuyết phục Thúy Vân vẹn tròn cả lý lẫn tình, nàng nhắc đến tình máu mủ ruột già mong em hãy bằng lòng chấp nhận, chính điều đó đã khiến cho Thúy Vân không thể từ chối lời thỉnh cầu của chị. Bước sang phân cảnh Kiều trao lại kỉ vật tình yêu với Kim Trọng cho Thúy Vân, ta thấy được một tình yêu đẹp, chân thành mà sâu sắc giữa hai người“Chiếc vành với bức tờ mây…Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”Phân tích bài Trao duyên- những bài văn mẫu hay nhấtNhững kỉ vật như chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền giờ đây trở thành của chung ba người, tuy trao đi kỉ vật nhưng lòng Kiều vẫn giữ mãi ân tình, không quên được những kỉ niệm với người yêu, điều đó khiến nàng đau xót như mất đi những phần quan trọng của cuộc sống.“Mai sau dù có bao giờ…Rưới xin giọt nước cho người thác oan”Kiều nhiều lần nhắc đến cái chết trong những lời của mình, một phần muốn chắc chắn rằng Thúy Vân đã nhận lời, nàng khi đã bán mình chuộc cha và em cũng khó có thể biết được số phận trôi dạt về đâu, sống chết không rõ ra sao. Kiều dù chết đi vẫn mong người ở lại hãy nhớ đến mình, mong muốn có được sự đồng cảm của mọi người, và đến khi chết nàng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng.“Bây giờ trâm gãy bình tan…Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”Kiều quay về thực tại, chẳng còn kỉ niệm tình yêu ngọt ngào nữa, giờ đây là hiện thực dở dang, lỡ làng, tan vỡ, bây giờ tình duyên của nàng đã mất, cuộc đời cũng sắp phải giao cho người khác, số phận nàng “bạc như vôi”. Nàng gọi tên chàng Kim trong nỗi thổn thức, xót xa và như một lời từ biệt cuối cùng “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang”, nàng đã phụ tấm lòng chàng Kim, nàng tuyệt vọng dưới sự đày đọa của hoàn cảnh và số qua việc phân tích bài trao duyên, ta không chỉ thấu hiểu được bi kịch tình yêu và số phận của Thúy Kiều mà còn thấy được ở đó hiện lên nhân cách cao đẹp của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn, giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Qua nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ Nguyễn Du cũng bày tỏ sự cảm thông, xót xa trước những bất hạnh và hiện thực bất công của cuộc đời Phân tích đoạn trích Trao duyên, mẫu số 5 chuẩn“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với các thế hệ bạn đọc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”. “Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?Phải từ bỏ tình yêu của mình là điều không ai mong muốn nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều không thể làm khác. Nàng buộc phải hi sinh tình cảm, hạnh phúc riêng tư của bản thân để chuộc cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng“Cậy em em có chịu lờiNgồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”“Cậy” và “nhờ” là hai từ đồng nghĩa nhưng tại sao trong trường hợp này, Thúy Kiều lại nhờ từ “cậy”? Ngoài ý nghĩa nhờ vả, mong muốn người khác giúp đỡ mình thì từ “cậy” còn hàm chứa cả lòng tin tưởng, sự hi vọng vào người được nhờ vả của chủ thể. Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em ruột, vì thế nàng Kiều đã dốc hết lòng tin để gửi gắm mối duyên tình. Thanh trắc ở từ “cậy” khiến âm hưởng câu thơ trở nên nặng nề hơn, đồng thời cũng thể hiện mức độ quan trọng của việc nhờ vả. Người được nhờ có thể nhận lời hoặc từ chối giúp đỡ nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh mà nàng chỉ có thể “chịu lời”. “Chịu lời” là một sự chấp nhận bắt buộc, không còn sự lựa chọn nào khác. Biết mình đã khiến Thúy Vân rơi vào hoàn cảnh khó xử và có lẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi nên nàng đã dùng lễ nghi trang trọng để bày tỏ nỗi lòng của mình với em. “Lạy”, “thưa” là những lễ nghi trang trọng thường dùng đối với các bậc bề trên trong xã hội phong kiến, đồng thời hành động ấy cũng được dành cho những bậc ân nhân, những người có ơn đối với mình. Trong trường hợp này, Thúy Vân là người mà Thúy Kiều sẽ mang ơn suốt cả cuộc đời nên hành động mời em gái “ngồi lên” để mình “lạy”, “thưa” cũng là điều dễ tích bài Trao duyên có dàn ý chi tiết Chuyện tình yêu của nàng đang tốt đẹp thì bỗng nhiên tai ương xảy đến“Giữa đường đứt gánh tương tưKeo loan chắp mối tơ thừa mặc em”“Gánh tương tư” bị “đứt” giữa đường thật đột ngột, đây là điều mà Thúy Kiều không ngờ tới. Hình ảnh “gánh tương tư” chính là ẩn dụ cho mối tình thắm thiết đó. Chỉ còn đêm nay là đêm cuối cùng ở nhà bởi ngày mai nàng đã trở thành vợ lẽ của người khác, tình yêu với Kim Trọng chỉ còn trong kí ức chứ không thể nào tiếp tục được nữa. Nhưng Thúy Kiều không phải là kẻ bạc tình, bạc nghĩa, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Tình yêu ấy đối với Thúy Kiều có thể là một tình yêu đẹp nhưng đối với Thúy Vân thì đó có thể là “tơ thừa” vì nàng không hề có tình cảm với Kim Trọng cũng như không liên quan đến mối tình Kim - Kiều. Vậy mà giờ đây, nàng phải thay chị kết duyên với một người mà mình không hề yêu, hoàn cảnh ấy thật khó xử. Dân gian có câu “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người không nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì không ai có thể giúp nàng chuyện này. Chỉ có Thúy Vân mới có thể thay Kiều kết duyên cùng chàng Kim và cũng chỉ có Thúy Vân mới khiến nàng yên tâm gửi gắm mối duyên tình. Thúy Kiều để “mặc em” quyết định nhưng thực chất là phó thác, ép buộc Thúy Vân phải đồng ý giúp đỡ. Nàng muốn Thúy Vân hãy dùng thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan để nối tiếp mối duyên với Kim chỉ bằng lời nói, lễ nghi trang trọng mà Thúy Kiều còn kể cho Vân nghe chi tiết chuyện tình yêu của mình để thuyết phục em“Kể từ khi gặp chàng KimKhi ngày quạt ước khi đêm chén thềSự đâu sóng gió bất kìHiếu tình hai lẽ khôn bề vẹn hai” Những đôi trai gái yêu nhau thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng như vậy. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hẹn. Điệp từ “khi” được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật khăng khít, sâu nặng. “Quạt ước”, “chén thề” gợi nhắc nàng nhớ đến đêm thề nguyền thiêng liêng ấy“Tiên thề cùng thảo một chươngTóc mây một món dao vàng chia đôi”Lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” đến nay đã không thể thực hiện bởi “sóng gió bất kì”. Trong hoàn cảnh éo le như vậy, giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, nàng bắt buộc chỉ được chọn một. Và với sự hiếu thảo của một người con, nàng đã chọn chữ “hiếu” còn chữ “tình” nàng trông cậy Thúy Vân nhận lời giúp mình. Trong xã hội phong kiến, có mấy ai làm trọn vẹn được cả “tình” cả “hiếu” và Thúy Kiều cũng vậy, nàng thật vị tha khi luôn nghĩ cho người khác mà quên đi bản thân mình. Sự lựa chọn chữ “hiếu” của nàng cũng là điều hợp tình hợp lí bởi cha mẹ đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho mỗi chúng ta, công ơn ấy chúng ta không thể nào đền đáp hết. Nàng thực sự là “người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa” Chu Mạnh Trinh.Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng“Ngày xuân em hãy còn dàiXót tình máu mủ thay lời nước nonChị dù thịt nát xương mònNgậm cười chín suối hãy còn thơm lây”So sánh với Thúy Kiều thì những ngày xuân của Thúy Vân vẫn còn dài, Thúy Vân hoàn toàn có thể giúp được việc mà Thúy Kiều nhờ vả. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả “tình máu mủ”, tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một thế giới khác, Kiều vẫn vui vẻ, mãn nguyện vì em đã “chắp mối tơ thừa” giúp mình. Tâm trạng ấy đã được Nguyễn Du thể hiện qua thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Dù nàng ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được “thơm lây” với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc đến cái chết của chính mình, Thúy Kiều đau đớn biết nhường không muốn thì nàng cũng trao lại những kỉ vật tình yêu của mình để em gìn giữ, trân trọng mối tơ duyên đó“Chiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ, vật này của em nên vợ nên chồngXót người mệnh bạc ắt lòng chẳng người còn chút của tin,Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”.Người ta thường nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất nhưng cũng là mối tình gây cho ta nhiều đau khổ nhất, điều ấy quả không sai. Mối tình đầu với Kim Trọng đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà bây giờ lỡ dở, làm sao Thúy Kiều không khỏi xót xa, dằn vặt? Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân. Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim - Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu mà nó trở thành “của chung”. Nỗi đau đớn của nàng dường như đã bật thành tiếng nấc nghẹn ngào. Nàng đâu muốn trao duyên lại cho một người khác, nàng đâu muốn phụ bạc chàng Kim nhưng hoàn cảnh nghiệt ngã đã buộc nàng phải làm như vậy. Mảnh trầm hương đốt trong buổi thề nguyền và những giây phút Kiều gảy đàn bên Kim Trọng giờ đây đã trở thành quá khứ - một quá khứ gợi bao nỗi xót xa, tiếc nuối. Lí trí và tình cảm đã có sự mâu thuẫn khi nàng muốn giữ lại chữ “duyên” cho bản thân mình làm của riêng. Nàng đã hi sinh tình cảm cá nhân vì gia đình, nàng đã trao duyên lại cho Thúy Vân để mong Kim Trọng được hạnh phúc vậy thì một chút “duyên” nàng xin được giữ lại cũng là điều dễ thấu hiểu. Lại thêm một lần nữa, Thúy Kiều nghĩ về cái chết. Phải chăng nàng đã dự đoán được số phận nổi trôi, vô định, hẩm hiu của mình? Nàng hình dung ra viễn cảnh Thúy Vân và Kim Trọng “nên vợ nên chồng”, chung sống hạnh phúc còn mình là “người mệnh bạc”, số phận bạc bẽo, không may kỉ vật đã trao nhưng dường như Thúy Kiều không thoát khỏi được sự ám ảnh về cái chết, nàng vẫn chưa thể yên lòng“Mai sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy, so tơ phím ra ngọn cỏ gió cây,Thấy hiu hiu gió, thì hay chị còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu đền nghì trúc đài cách mặt, khuất lời,Rảy xin chén nước cho người thác oan”.Kiều nhắc em mai sau có đốt lò hương hay đánh đàn thì hãy nhớ đến mình, lúc ấy nàng mong Vân hãy “trông ra ngọn cỏ lá cây” để thấy được linh hồn oan khuất của mình. Lời nhắn nhủ ấy tức tưởi và đau xót biết bao. Nàng đã mường tượng ra thảm cảnh của mình nhưng ngay cả khi trở thành một linh hồn thì nàng vẫn mang theo lời thề nguyền cùng Kim Trọng. Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân bồ liễu” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu đuối, mỏng manh không còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu đôi lứa. Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho linh hồn oan khuất, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan. Tình yêu tan vỡ, Thúy Kiều đau đớn tự độc thoại với chính mình“Bây giờ trâm gãy gương tan,Kể làm sao xiết muôn vàn ái nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!Phận sao phận bạc như vôiĐã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làngƠi Kim lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.Hơn ai hết, nàng ý thức rất rõ về thực tại của mình. “Trâm gãy gương tan” là biểu hiện cho sự tan vỡ của tình yêu. Mọi việc xảy đến bất ngờ, đột ngột quá nên “muôn vàn ái ân” với Kim Trọng làm sao nàng có thể kể xiết. Ân tình với chàng Kim càng lớn thì nàng cảm thấy có lỗi bởi đã phụ lòng chàng. Tơ duyên chỉ ngắn ngủi có ngần ấy, số phận thì bạc bẽo như vôi, tình yêu thì dở dang, lỡ làng đã khiến Thúy Kiều có những dằn vặt, giằng xé trong nội tâm. Nàng chỉ có thể gửi đến người yêu của mình trăm nghìn cái lạy. Đó là cái lạy từ biệt nhưng cũng là cái lạy tạ lỗi với người “tình quân” vì nàng đã tự coi mình là kẻ phụ bạc đã phá đi lời thề nguyền trước đây. Nàng Kiều đâu có lỗi gì trong chuyện này, có trách thì hãy trách xã hội đồng tiền đầy rẫy những bất công, đẩy con người rơi vào bi bịch. Tiếng gọi “Kim lang” vang lên hai lần nghe mới tha thiết làm sao. Nàng là người nặng tình nghĩa đã nhận hết lỗi lầm về mình và luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đức hi sinh của nàng thật đáng quý!Sau khi phân tích bài Trao duyên, chúng ta có thể thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến đỉnh cao của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những thành ngữ dân gian cùng sự kết hợp ngôn ngữ bác học trang trọng và ngôn ngữ dân gian để diễn tả những tâm trạng đau khổ, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên lại cho Thúy Vân. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại được sử dụng một cách linh hoạt. Bên cạnh đó, thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng cũng góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích. “Trao duyên” đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. Chẳng vậy mà ông đã viết“Thương thay cũng một kiếp ngườiHại thay mang lấy sắc tài làm chiNhững là oan khổ lưu liChờ cho hết kiếp còn gì là thân”.6. Phân tích đoạn trích Trao duyên, mẫu số 6 ChuẩnNguyễn Du - một trong những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm “Truyện Kiều” đã khẳng định và ghi dấu tên tuổi Nguyễn Du trên văn đàn nghệ thuật nước nhà và thế giới. “Trao duyên” là đoạn trích đặc sắc trong Truyện Kiều nói về tình yêu sâu nặng cũng như bi kịch số phận của Kiều trước biến cố cuộc trích nói về hoàn cảnh của gia đình Kiều dẫn đến việc Kiều phải “trao duyên”. Bọn sai nha gây ra vụ án oan sai đối với gia đình Kiều, khiến nàng phải bán mình lấy để chuộc cha. Bán mình đi tức là nàng đã bán đi quyền lựa chọn đối với cuộc đời mình, nàng đành hy sinh mối tình với Kim Trọng, đành phụ chàng. Thế nhưng vì tình sâu nghĩa nặng, Kiều không thể cứ thế mà phụ chàng Kim, nàng đã trao duyên cho Thúy Vân là em gái mình, mong rằng em có thể thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Bằng những hành động và lời lẽ lí tình thấu đáo, Kiều cố gắng thuyết phục em mình“Cậy em em có chịu lờiNgồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưaGiữa đường đứt gánh tương tưKeo loan chắp mối tơ thừa mặc em”Từ “cậy” diễn tả sự trông cậy, mong mỏi tha thiết chứ không đơn giản là nhờ vả, kết hợp với từ “chịu” giống như đặt người nghe vào hoàn cảnh phải đồng ý trước rồi mới nói. Thúy Kiều chính là đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh đó, rồi nàng còn có hành động mời em ngồi lên để mình quỳ lạy, thưa gửi, đó là hành động thể hiện sự kính trọng, biết ơn đối với ân nhân. Kiều biết chuyện mình trao duyên cho em là khó khăn và khó xử đối với em nên cần thiết phải hành động như vậy để bù đắp lại. Kiều hiểu rằng mối tình giữa nàng và Kim Trọng chỉ là “mối tơ thừa” đối với Vân nhưng vì hoàn cảnh mà nàng vẫn phải trao duyên, gửi gắm duyên tình, mặc cho em vướng vào gánh nặng ân tình đó.“Ngày xuân em hãy còn dàiXót tình máu mủ thay lời nước nonChị dù thịt nát xương mònNgậm cười chín suối hãy còn thơm lây”Nàng Kiều giãi bày lí do phải trao duyên cho em đó chính là bởi “sóng gió bất kì” đã ập xuống gia đình, nàng phải hy sinh chữ tình để đổi lấy chữ hiếu. Lời nói của Kiều đầy đủ lí lẽ lại lấy tình cảm chị em máu mủ ra để thuyết phục Thúy Vân, nếu như có được sự đồng ý của Vân, Kiều dù có phải bán mình sống chết oan uổng cũng được mãn nguyện, việc làm của Vân sẽ là ơn sâu nghĩa nặng đối với Kiều.“Chiếc vành với bức tờ mây...Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”Phân tích bài Trao duyên, trích Truyện Kiều của Nguyễn DuSau những lời thuyết phục đầy lí lẽ của Kiều, khó có thể cho Vân đường chối từ, biết em sẽ thấu hiểu cho mình mà chấp nhận nên Kiều đem những kỉ vật tình yêu ngày xưa trao cho Vân. Tay trao kỉ vật nhưng lòng nàng nặng trĩu, đau xót như mất đi những điều quý giá nhất, giờ đây kỉ vật đã là của chung của ba người, chỉ còn tình yêu và duyên ước nàng giữ cho riêng mình. Nàng dặn dò Thúy Vân mai này có nên vợ nên chồng với chàng Kim hãy nhớ đến người mệnh bạc như nàng. Thúy Kiều nhắc đến cái chết qua những câu thành ngữ, tục ngữ hay từ ngữ như “hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài”, nàng như đã dự cảm chẳng lành về số phận của mình, bi kịch lớn nhất là cái chết, thế nhưng dù có chết nàng cũng không quên lời thề với Kim Trọng, chỉ mong Kim Trọng sau này khi trở về sẽ thấu hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh éo le của nàng.“Bây giờ trâm gãy gương tanKể làm sao xiết muôn vàn ái ânTrăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”Lời độc thoại của Thúy Kiều dày đặc các từ “trâm gãy”, “gương tan”, “nước chảy”, “hoa trôi” ám chỉ sự tan vỡ, đứt gánh giữa đường của mối duyên tình. Tình yêu sâu đậm, nồng nàn và chung thủy là thế, nhưng giờ đây nàng cũng đành phụ tình, hoàn cảnh đã đẩy số phận nàng vào bước đường cùng, chẳng còn lựa chọn nào khác cho Kiều. Dù có đau xót than oán nàng cũng đành cam chịu, tiếng gọi tha thiết dành cho Kim Trọng như một lời xin lỗi từ đáy lòng KiềuÔi Kim lang! Hỡi Kim Lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”“Ôi” và “hỡi” vừa là tiếng gọi tha thiết yêu thương lại vừa là lời than thân trách phận của Kiều, nàng cảm thấy có lỗi với chàng Kim và xót xa cho Kim Trọng khi nơi xa xôi vẫn luôn tin tưởng, chờ mong người đã phụ bạc như nàng. Cái lạy của nàng dành cho người tình quân như là tạ tội và vĩnh biệt chàng Kim. Có thể nói, tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu đậm và tha thiết, thế nhưng, nàng đã hy sinh vì gia đình, quên đi nỗi đau của mình hướng đến nỗi đau của cha mẹ và hai việc phân tích bài trao duyên, chúng ta có thể thấy được bi kịch tình yêu và thân phận bất hạnh của Thúy Kiều một cách sâu sắc. Đây cũng là một trong những trích đoạn tiêu biểu cho tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của đại thi hào Nguyễn Phân tích đoạn trích Trao duyên, mẫu số 7 ChuẩnNguyễn Du, đại thi hào dân tộc, một vị danh nhân văn hóa thế giới, tài năng của ông được khẳng định qua nhiều tác phẩm văn học xuất sắc. Trong đó nổi bật và được biết đến nhiều nhất là Truyện Kiều, một truyện thơ được xếp vào hàng kiệt tác của nền văn học trung đại cũng như toàn nền văn học của Việt Nam. Truyện Kiều là một tác phẩm văn học có tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân ta từ hàng trăm năm nay, từ Truyện Kiều lại phát sinh ra vịnh Kiều, bói Kiều, tranh Kiều, lẩy Kiều,… là nguồn cảm hứng cho hàng loạt các loại hình sân khấu, âm nhạc, hội họa,… thậm chí nó còn vươn xa ra ngoài thế giới với hơn 20 bản dịch của các quốc gia khác nhau. Có thể nói rằng khó có thể có tác phẩm nào trong nền văn học Việt Nam có thể vượt qua cái bóng của Truyện Kiều. Đoạn trích Trao duyên là một đoạn trích đặc sắc và khá tiêu biểu cho cuốn truyện thơ này, kể về nỗi bất hạnh đớn đau đầu tiên trong cuộc đời 15 năm sóng gió lưu lạc của Thúy Kiều, cô gái tài hoa nhưng mệnh dĩ có cảnh trao duyên bởi trước đó khi gia đình gặp biến cố, cha và em của Kiều bị bắt bớ và đánh đập vô cùng dã man, phải có một món tiền lớn để chuộc thì mới thoát tội chết. Kiều vốn là con cả thế nên phải gánh trách nhiệm này, cách duy nhất Kiều có thể nghĩ đến ấy là bán thân làm vợ lẽ cho người ta để kiếm tiền. Thế nhưng đau đớn thay, Kiều lại chót thề nguyền đính ước với chàng Kim Trọng, hứa đợi chàng trở về, nay ra nông nỗi này lòng Kiều vô cùng rối rắm. Thế rồi, sau bao nhiêu trằn trọc suy nghĩ, chữ hiếu vẫn đặt lên trên chữ tình, Kiều đành có lỗi với tình cảm của chàng Kim, để trọn hiếu với phụ mẫu. Nhưng Kiều vẫn muốn vẹn toàn đôi bên, nên đã nhờ em là Thúy Vân nối tiếp tình duyên với Kim Trọng coi như là trả hết nghĩa cho chàng. Đoạn trích Trao duyên trích từ câu 723-756, thuộc phần Gia biến và lưu lạc.“Cậy em em có chịu lờiNgồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”Trước khi kể lại câu chuyện tình yêu của mình với Kim Trọng, trước khi chính thức cậy nhờ Thúy Vân Kiều đã có một lời dạo đầu, lời dạo đầu ấy đã đặt Thúy Vân vào vị trí khó xử, nàng bị đưa vào thế không thể từ chối. Lời mở đầu của Kiều đã được nàng hết sức cân nhắc, cẩn trọng đến từng từ sao cho phù hợp, có thể nói từng câu từng chữ đều rất tinh tế, khiến người nghe phải chịu vào thế và Thúy Vân thì lại càng không ngoại lệ. Kiều dùng từ “cậy” mà không dùng từ “nhờ” bởi vốn từ ấy ngoài nghĩa nhờ vả, thì còn mang sắc thái gửi gắm, tin tưởng, tin cậy, thêm vào đó còn mang theo sự trông mong hy vọng tha thiết từ Kiều. Một từ khác Kiều tiếp tục dùng ấy là từ “chịu lời”, ấy là tư thế làm một việc gì đó không tự nguyện, miễn cưỡng chấp nhận, chứng tỏ Kiều rất hiểu cho tình thế và nỗi lòng của Thúy Vân khi nghe những lời mà mình sắp nói. Phải nói rằng việc phải lấy Kim Trọng là một sự thiệt thòi lớn cho Thúy Vân, bởi thứ nhất Vân phải chịu sự sắp đặt lấy một người mình chưa chắc đã yêu, mà người đó lại cả đời đuổi theo bóng của chị mình, đó chính là bi kịch của cuộc đời nàng. Kiều cũng biết điều ấy, nhưng vì trọn nghĩa và cũng vì trọn hiếu dẫu biết em gái sẽ khó xử nhưng nàng vẫn buộc phải làm, xem như đó cũng là một phần trách nhiệm mà Thúy Vân phải gánh vác sau biến cố gia bài Phân tích đoạn trích trao duyên tuyển chọnSự áy náy, sự bất đắc dĩ khiến Kiều phải dùng từ “lạy-thưa” với Thúy Vân, dẫu nghe vào có vẻ rất phi lý, bởi Kiều phận chị lẽ nào lạy em? Nhưng sắp trong trường hợp Kiều phải nhờ Vân một chuyện hệ trọng thì nó lại rất hợp lý, bởi mối quan hệ chị - em giờ đây đã chuyển thành mối quan hệ người chịu ơn và ân nhân của mình, đó là sự tôn trọng của Kiều dành cho những gì mà Thúy Vân sẽ làm cho mình. Và như thế Thúy Vân lại càng khó có thể từ chối trước những điều mà Kiều nhờ vả, dẫu biết nó thật éo le và khó chấp nhận.“Giữa đường đứt gánh tương tư,Keo loan chắp mối tơ thừa mặc từ khi gặp chàng Kim ,Khi ngày quạt ước, khi đêm chén đâu sóng gió bất kỳ,Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?Ngày xuân em hãy còn dài,Xót tình máu mủ, thay lời nước dù thịt nát xương mòn,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”Để giải thích cho lời nhờ vả của mình cũng như lý lẽ mà nàng phải trao duyên, Kiều đã giãi bày những mâu thuẫn mà bản thân đang phải đối mặt. Trước hết nàng đã hẹn thề với Kim Trọng, có vật làm chứng là “quạt ước” hẹn trăm năm, đã uống cạn “chén thề” lòng thủy chung. Thúy Kiều từng rất nhiều lần thề nguyền chắc chắn với Kim Trọng, hơn thế nữa trong xã hội phong kiến, lời thề nặng tựa ngàn cân, vậy mà giờ đây Kiều buộc phải bội ước, trái lại lời thề với Kim Trọng. Đó là một điều ghê gớm và được xem là bất nghĩa. Thế nhưng không phải lòng Kiều muốn vậy mà vì chữ hiếu Kiều buộc phải đi vào bước đường bất nghĩa, xuất phát từ nguyên nhân khách quan, “Sự đâu sóng gió bất kỳ”, đó là một biến cố rất lớn, xảy đến đến đột ngột khiến Kiều không kịp trở tay. Kiều bị đặt vào mối mâu thuẫn “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”, cuối cùng bên hiếu vẫn là trên hết, tuân thủ theo nguyên tắc đạo lý phong kiến, Kiều đã quyết định hy sinh bản thân để chuộc cha. Nhưng Kiều lại rơi vào mâu thuẫn khác, phụ lòng người yêu, phụ đi mối tình đầu sâu nặng, Kiều rất đau khổ, áy náy dằn vặt vì tình yêu dang dở “Giữa đường đứt gánh”, hết sức xót xa, tội những tình cảnh khốn khổ và những mâu thuẫn chồng chéo, Kiều đã giải quyết mâu thuẫn ấy bằng cách “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Chỉ bằng đúng từ “tơ thừa” đã thể hiện nỗi đớn đau khổ sở của Kiều trong việc dứt tình, trao duyên cho em gái, cũng là lòng thương xót, tội nghiệp cho Thúy Vân vì phải hứng mới duyên thừa, một mối duyên chắp vá mà không thể từ chối. Kiều “mặc em”, buộc Thúy Vân vào khốn cảnh, dẫu biết rằng “Ngày xuân em hãy còn dài”, biết rằng cơ hội hạnh phúc của Thúy Vân đang còn rộng mở, phơi phới. Nhưng Kiều biết rằng Thúy Vân sẽ không thể từ chối vì “Xót tình máu mủ” em sẽ “thay lời nước non”, thay Kiều trả nghĩa cho Kim Trọng. Thúy Kiều tin chắc rằng Vân sẽ đồng ý, nên tiếp tục giãi bày tâm trạng của mình “Chị dù thịt nát xương mòn/Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, Kiều có dự cảm không lành về tương lai, nhưng dù có chuyện gì xảy ra thì Kiều vẫn có thể yên tâm, bằng lòng vì đã được an ủi bằng việc vẹn toàn chữ hiếu, lẫn chữ tình.“Chiếc vành với bức tờ mâyDuyên này thì giữ, vật này của em nên vợ nên chồng,Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!Mất người còn chút của tin,Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”Thúy Kiều trao duyên, cũng trao từng kỷ vật lại cho Thúy Vân, gọi tên từng thứ một “chiếc vành”, “bức tờ mây, “phím đàn với mảnh hương nguyền”, tất cả đều là những kỷ niệm bên nhau của Kim-Kiều. Lúc này đây Kiều trao lại hết cho Vân, trao kỷ vật cũng là trao duyên cho Thúy Vân, cùng lúc đó ở trong Kiều cũng xuất hiện sự mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm. Nàng trao hết kỷ vật, để dứt tình, mong muốn Vân có cuộc sống gia đình êm đềm và hạnh phúc, bên cạnh đó lòng nàng cũng xuất hiện những giằng xé. Duyên trao em nhưng kỷ vật thì lại là của chung, nàng muốn đồng sở hữu chúng, cũng mong muốn rằng vợ chồng Kim Trọng mãi nhớ đến mình, với Thúy Vân là tình máu mủ, với Kim Trọng là tình yêu. Rõ ràng Thúy Kiều cũng có lòng ích kỷ và lòng mềm yếu, điều ấy chứng minh tình cảm của nàng với Kim Trọng rất sâu nặng, hẳn trong lúc trao duyên nàng đã phải đau đớn tột cùng trong tâm can.“Mai sau dù có bao giờ,Đốt lò hương ấy, so tơ phím ra ngọn cỏ gió cây,Thấy hiu hiu gió, thì hay chị còn mang nặng lời thề,Nát thân bồ liễu đền nghì trúc đài cách mặt, khuất lời,Rảy xin chén nước cho người thác oan.”Kiều trao duyên xong thì lại dặn dò Thúy Vân chuyện mai sau, mỗi khi đốt hương đánh đàn thì Thúy Kiều sẽ về, lúc ấy Thúy Vân hãy nhỏ giọt nước làm phép để giải oan cho mình. Lần nữa lại có sự mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm, một bên mong Thúy Vân và Kim Trọng sẽ có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và êm đềm, một bên lại mong rằng mình được sum họp trong những giây phút hạnh phúc bên cạnh Kim và Vân. Như vậy, Thúy Kiều hiện lên trong đoạn trích không chỉ là một tấm gương đạo lý đơn thuần, mà còn là một con người trần thế sống động có tình cảm yêu thương, đau đớn.“Bây giờ trâm gãy bình tan,Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!Trăm nghìn gửi lạy tình quânTơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy sao phận bạc như vôi?Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ Kim Lang! Hỡi Kim lang!Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”Trở lạị với hiện thực, Thúy Kiều thức tỉnh chỉ để đớn đau, sau những cố gắng níu kéo không khả thi, nàng buộc phải quay về đối mặt và chấp nhận nghịch cảnh, tình yêu tan vỡ không thể hàn gắn, bản thân nàng phải gả cho người xa lạ làm vợ lẽ, cuộc đời mịt mù trôi dạt chẳng biết về nơi nao. Kiều thức tỉnh trước nỗi đau thân phận bẽ bàng “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”, gợi ra nỗi đau cùng cực của Thúy Kiều. Kiều đã đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng, lời gọi như khóc, như than, nghe não nề, đứt ruột, câu thơ kết là lời tự trách, lời thú tội phụ bạc tình yêu với Kim Trọng. Nếu trên góc nhìn của người đọc thì Kiều không hề có lỗi, bởi sự phản bội của Kiều là do khách quan, đồng thời nàng đã nhờ Thúy Vân trả nợ duyên cho mình, thế nhưng nếu là Kim Trọng, thì Kiều hoàn toàn có lỗi, nợ lại mối tình với chàng, không cách nào trả được. Nhận thấy được tình cảm Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu nặng, vẻ đẹp của lòng vị tha và đức hy sinh cao đoạn trích "trao duyên", Nguyễn Du đã thể hiện lòng thông cảm, xót thương với bi kịch tình yêu, với thân phận bất hạnh của Thúy Kiều, điển hình của một kiếp hồng nhan bạc mệnh trong xã hội phong kiến, đồng thời trân trọng ngợi ca nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Trong đoạn trích bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc, tác giả đã miêu tả một cách tinh tế tâm trạng của nhân vật trong cảnh trao duyên, bằng cách sử dụng nhiều hình thái ngôn ngữ, đối thoại, độc thoại, nửa trực tiếp.Tác giả Admin - Vui lòng ghi nguồn bài viết khi sử dụng lại bài văn này-HẾT- Trao duyên là đoạn trích đặc sắc trong Truyện Kiều, để thấy hết đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật của đoạn trích, các em có thể tham khảo bài Thuyết minh về đoạn trích Trao duyên, Cảm nhận về 8 câu thơ cuối bài Trao duyên, Vẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyên, Cảm nhận về đoạn Trao duyên
Bài viết hướng dẫn phân tích Trao Duyên một cách chi tiết, hướng dẫn lập dàn ý trao duyên. Phân tích mẫu từng đoạn 12 câu đầu, 14 câu đầu, 18 câu đầu và 8 câu cuối bài trao duyên hay và mới nhấtTrao Duyên là một trích đoạn trong tác phẩm “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. Hôm nay HocThatGioi sẽ cùng bạn tìm hiểu và phân tích trao duyên để học giỏi hơn bài này nói riêng cũng như môn ngữ văn 10 nói chung bạn nhé. “Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai? Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ, thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên! Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Mai sau dù có bao giờ, Đốt lò hương ấy, so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ gió cây, Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt, khuất lời, Rảy xin chén nước cho người thác oan. Bây giờ trâm gãy bình tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phận sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” Phân tích Trao Duyên Đọc hiểu đoạn trích Trao Duyên Vị trí Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều, là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân Bố cục – 3 phần Phần 1 12 câu đầu Kiều thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân Phần 2 14 câu tiếp Kiều trao kỉ vật và dặn dò Phần 3 còn lại Kiều đau đớn và độc thoại nội tâm Giá trị nội dung Đoạn trích thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều qua đó thể hiện tiếng kêu đau đớn của tác giả về số phận con người trong xã hội phong kiến Giá trị nghệ thuật Bằng hình thức độc thoại và kết hợp sử dụng giữa ngôn ngữ trang trọng với lối nói dân giản dị, tác giả đã thể hiện đặc sắc diễn biến tâm trạng phức tạp và bế tắc của Thúy Kiều trong đêm trao duyên. Phân tích dàn ý Trao Duyên I. Mở bài – Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” – Giới thiệu về đoạn trích Trao duyên II. Thân bài 1. Phân tích 12 câu đầu Trao Duyên “Cậy em em có chịu …. ………………………………………. ………..chín suối hãy còn thơm lây” Nội dung 12 câu đầu Kiều thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân từ câu 1 đến 12 a. Hai câu đầu Lời nhờ cậy – Lạy trang nghiêm, hệ trọng – Thưa kính cẩn, trang trọng với bề trên hoặc người lớn tuổi hơn mình ⇒ Không khí trao duyên trang trọng, thiêng liêng. ⇒ Sự việc bất ngờ, phi lý mà lại hợp lý, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sắp nhờ, thấy được sự nhạy cảm, tinh tế và khôn khéo của Thúy Kiều. b. Mười câu còn lại Lí lẽ trao duyên của Thúy Kiều + Cảnh ngộ của Thúy Kiều – “đứt gánh tương tư” mối tình dở dang, đứt quãng. – “sóng gió bất kì” tai họa ập đến gia đình nàng. – Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai” Lựa chọn giữa hiếu và tình. – “mối tơ thừa” mối tình duyên Kim-Kiều; “chắp mối” Thúy Vân là người nhận lại mối tình dang dở đó → cách nói nhún nhường, trân trọng vì Kiều hiểu rõ sự thiệt thòi của em. – “mặc em” phó mặc, ủy thác → vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Thúy Vân phải nhận lời. + Thúy Kiều kể vắn tắt mối tình với Kim Trọng – Khi gặp chàng Kim – Khi ngày quạt ước – Khi đêm chén thề ⇒ Mối tình còn giang dở, lời hẹn ước của Thúy Kiều với Kim Trọng vẫn còn đó + Lời lẽ thuyết phục Thúy Vân – “ngày xuân” Thúy Vân còn trẻ, còn có tương lai. – “xót tình máu mủ” Tình chị em, tình ruột thịt thiêng liêng. – “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” Nàng tưởng tượng đến cái chết của mình để gợi sự thương cảm ở Thúy Vân. ⇒ Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa ⇒ 12 câu thơ đầu là lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện. Để giúp các bạn hiểu rõ hơn HocThatGioi tổng hợp sẳn 9 bài văn mẫu phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên rất hay. Giúp các bạn tham khảo và học tốt hơn. 2. Phân tích 14 câu giữa Trao Duyên “Chiếc hoa với bức tờ…. ………………………………………. ………..chén nước cho người thoác oan” Nội dung 14 câu giữa Kiều trao kỉ vật và dặn dò em 14 câu tiếp theo a. Sáu câu thơ đầu Kiều trao kỉ vật cho em – Kỉ vật Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền ⇒ Những kỉ vật thiêng liêng, quan trọng đối với Thúy Kiều và Kim Trọng – Cách sử dụng từ ngữ Duyên này thì giữ, vật này của tin + Duyên này tình riêng của Kiều với Kim Trọng + Vật này của chung của kim,Kiều và của cả Vân nữa + Của tin những kỉ vật gắn bó, chứng giám cho tình yêu của Kim, Kiều ⇒ Sự giằng xé trong tâm trạng của Thúy Kiều b. Tám câu còn lại Lời dặn dò của Thúy Kiều – Từ ngữ mang tính giả đinh mai này, dù có ⇒ Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai – Hình ảnh lò hương, ngọn cỏ, lá cấy, hiu hiu gió, hồn, thân bồ liễu, đền nghì trúc mai, dạ đài, giọt nước, người thác oan ⇒ Gợi ra cuộc sống cõi âm, đầy thần linh, ma mị – Nhịp điệu chậm rãi, nhịp nhàng, thiết tha, tức tưởi như tiếng khóc não nùng, cố nén lại để không bật lên thành lời ⇒ Sự dằng xé, đau đớn và nhớ thương Kim Trọng đến tột cùng của Kiều ⇒ 14 câu thơ tiếp là một khối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát. Để giúp các bạn hiểu rõ hơn HocThatGioi tổng hợp sẳn 4 bài văn mẫu phân tích 14 câu giữa đoạn trích Trao duyên rất hay. Giúp các bạn tham khảo và học tốt hơn. 3. Phân tích 8 câu cuối Trao Duyên “Bây giờ trâm gãy bình …. ………………………………………. ………..thiếp đã phụ chàng từ đây” Nội dung 8 câu cuối Kiều đau đớn và độc thoại nội tâm 8 câu cuối còn lại của trích đoạn – Sử dụng các thành ngữ chỉ sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người trâm gãy gương tan, hoa trôi lỡ làng, phận bạc như vôi – Nghệ thuật đối lập giữa quá khứ và hiện tại gợi nên nỗi đau của Kiều ở hiện tại – Nghệ thuật độc thoại nội tâm Lời nói hướng đến Kim Trọngngười vắng mặt nhưng lại là tự dằn vặt, dày vò chính mình ⇒ Tâm trạng của Thúy Kiều vật vã, đau đớn rồi ngất đi trong tiếng kêu thảng thốt, ai oán. ⇒ Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hường về tình yêu của mình và Kim Trọng Để giúp các bạn hiểu rõ hơn HocThatGioi tổng hợp sẳn 6 bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên rất hay. Giúp các bạn tham khảo và học tốt hơn. III. Kết bài – Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích – Cảm nhận của bản thân là đoạn trích giàu cảm xúc, cho thấy vẻ đẹp của Thúy Kiều và tài năng của Nguyễn Du. Trên đây là toàn bộ kiến thức về đoạn trích “Trao Duyên”. HocThatGioi hy vọng kiến thức này sẽ giúp bạn học tốt hơn và phân tích trao duyên tốt hơn. Nếu bài viết hữu ích, mong quý bạn đọc share cho bạn bè cùng tham khảo. Một vài câu hỏi bài tập hay gặp liên quan đến bài Trao Duyên Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của đoạn thơ Trao duyên Giá trị hiện thực Đoạn trích Trao duyên đã tái hiện bức tranh phong kiến đầy chân thực. Đó không chỉ là việc một gia đình trung lưu bị án oan mà còn là hình ảnh người con gái xinh đẹp nhưng phải bán mình chuộc cha, chuộc em. Một xã hội coi con người như món hàng để trao đổi, mua bán; một xã hội mà người phụ nữ không được tôn trọng và không được sống cuộc sống theo mong ước của mình mà luôn phải nghe theo sự sắp đặt của người khác. Giá trị nhân đạo Nguyễn Du đã miêu tả chân thực số phận đau khổ, bất công của Kiều khiến chúng ta đồng cảm với nàng, thêm yêu thương và đau xót trước nỗi đau mà nàng phải chịu đựng; đồng thời khiến ta thêm trân trọng vẻ đẹp cũng như tài năng hiếm có, đáng ngưỡng mộ của một cô gái xuân xanh. Từ đó, ta thêm căm ghét xã hội phong kiến đầy bất công đẩy con người vào cảnh bần cùng không lối thoát, đó là một xã hội đáng bị lên án. Thông điệp được gửi gắm qua đoạn thơ Trao duyên Đoạn trích không chỉ giàu giá trị nghệ thuật cũng như nội dung sâu sắc mà nó còn mang nhiều thông điệp ý nghĩa Xã hội cần có sự thay đổi trong hệ thống pháp luật để con người không phải chịu những bản án oan ức. Người phụ nữ cần được coi trọng, không phải là món hàng hóa để có thể mua bán. Phụ nữ cần được yêu thương, nâng niu, bao bọc, che chở. Tình yêu đóng góp một phần rất quan trọng trong cuộc sống tuy nhiên phải đặt chữ hiếu lên trên; phải biết đền đáp công ơn của cha mẹ bằng những hành động, việc làm thiết thực. Từ đoạn thơ Trao duyên, liên hệ hình ảnh Kiều với hình ảnh người phụ nữ trong xã hội hiện nay Thúy Kiều là hình ảnh đại diện cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, họ không có tiếng nói, không được tôn trọng. Dù nàng là một thiếu nữ xinh đẹp, tài năng nhưng không tránh khỏi cuộc đời long đong, lận đận. Chính xã hội bất công đã đẩy cuộc đời nàng trôi nổi, khốn khổ suốt bao nhiêu năm. Tuy nhiên, họ không có quyền cất lên tiếng nói đòi quyền bình đẳng cho mình mà chỉ im lặng, cam chịu. Ngày nay, khi xã hội phát triển, con người được đối xử công bằng hơn, người phụ nữ cũng từ đó mà được tôn trọng, được đối xử bình đẳng hơn. Họ có địa vị trong xã hội, có tiếng nói, được tôn trọng và có những thành công nhất định của mình. Ngoài ra, xã hội cũng như chính phủ các nước cũng có những chính sách thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích của người phụ nữ. ⇒ Xã hội phát triển, người phụ nữ cũng ngày càng được coi trọng và có những giá trị riêng của mình. Họ được yêu thương và trân trọng nhiều hơn. Bài viết khác liên quan đến Lớp 10 – Ngữ Văn – Trao duyên 9 bài văn mẫu phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao Duyên hay nhất 4 bài văn mẫu phân tích 14 câu giữa đoạn trích Trao Duyên 6 bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao Duyên
1. Kết bài 1 Trao duyên là đoạn trích được trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, đoạn trích nói về cuộc trao duyên đầy trớ trêu của Thúy Kiều cho Thúy Vân và đoạn trích này cũng mở đầu cho chuỗi ngày đau khổ của Thúy Kiều, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha, hi sinh mối tình đẹp với Kim Trọng. Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư của nàng Thúy kiều. Tình đầu là thứ tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ nhất, duyên phận vốn trớ trêu với con người. Chính vì thế chữ tình kia không trọn cho phận má đào. Cô không muốn chàng Kim đợi chờ mình mà mong rằng Thúy Vân em cô sẽ giúp cho anh có một cuộc sống hạnh phúc. Dẫu biết vậy nhưng nàng không khỏi đau khổ khi trao duyên. 2. Kết bài 2 Vậy đấy, lời trao duyên đứt ruột đã hoá thành lời trăng trối! Hình như cái tố chất đặc thù của người nghệ sĩ chính là sự cảm thông. Khả năng cảm thông sâu sắc khiến cho người nghệ sĩ đã hóa thân thành người trong cuộc, nhập thân thành người trong cuộc đến từng thoáng rợn mơ hồ nhất của xúc cảm để nói lên những tiếng nói sâu xa kín khuất nhất của cõi lòng. Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nguyễn Du đã hoá thành Thuý Kiều. Đến nỗi Thuý Kiều trao duyên mà ngỡ như chính Nguyễn Du đang đứt ruột trao duyên. 3. Kết bài 3 Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc, ngôn từ hàm súc cô đọng Nguyễn Du đã khắc họa thành công nỗi đau đớn, xót xa đến tột cùng khi Kiều phải trao duyên cho em. Đồng thời cũng cho thấy sự cảm thương của nhà văn cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều – kiếp hồng nhan bạc mệnh trong xã hội phong kiến. 4. Kết bài 4 Chỉ qua đoạn Trao duyên, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan như Mộng Liên Đường Chủ nhân là khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo. 5. Kết bài 5 Như vậy, với những ý nghĩa về nội dung và giá trị về nghệ thuật nói trên, đoạn trích “Trao duyên” nói chung và tám câu thơ cuối đoạn trích nói riêng đã giúp cho người đọc có thể phần nào đồng cảm và thấu hiểu cho nỗi lòng của nhân vật Thúy Kiều. Đó cũng là tình cảm dành cho những kiếp nữ nhân tài hoa nhưng bị sự cay nghiệt của số phận dồn ép đến tận cùng. Tuy nhiên, phải thừa nhận một điều rằng dù cho tình cảnh có ngang trái, éo le đến nhường nào, ở họ vẫn toát lên những vẻ đẹp đáng quý. 6. Kết bài 6 Nỗi đau của Kiều trong Trao duyên cũng là nỗi đau của nhân phẩm bị chà đạp, của giá trị con người bị giày xéo. Tiếng khóc ở đây là tiếng khóc cho mình, cho người, khóc cho cuộc đời, cho nỗi đau nhân thế. Nhà thơ Tố Hữu đã viết một lời thơ rất xúc động “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Dòng lệ đó đòi công bằng và chính nghĩa phải lên tiếng, đòi công lí và tự do phải hành động. Tất cả đều nhằm khẳng định phẩm giá con người. 7. Kết bài 7 Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích “Trao duyên” đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao. 8. Kết bài 8 Như vậy qua bài thơ ta thấy được tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái mình. Cái xã hội phong kiến kia đã khiến cho chữ tình chữ hiếu bị đặt lên bàn cân và buộc người con gái hiếu thảo kia phải lựa chọn. Mà vốn dĩ chữ hiếu và chữ tình không thể nào đem ra cân được. Chữ hiếu làm tròn thì chữ tình kia lại đành thất hẹn, làm trái lời thề. Chính bởi lẽ ấy mà Kiều cảm thấy rất đau đớn thậm chí cô đã nghĩ đến cái chết. 9. Kết bài 9 Đoạn thơ là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tâm hồn vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều. 10. Kết bài 10 Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” bậc nhất trong thiên “Đoạn trường tân thanh” của cuộc đời Kiều. Với con mắt tinh đời “trông thấu sáu cõi nhân gian”, Nguyễn Du đã tái hiện lại cuộc trao duyên với biết bao cảm xúc ngổn ngang ấy. Qua đó, ta càng thêm hiểu hơn cho Thúy Kiều hiểu hơn cho quyết định trao duyên những tưởng đầy vô lý ấy nhưng lại thấm đượm một tình yêu chân thành mà nàng dành cho Kim Trọng.
TOPLOIGIAI gửi đến các bạn Top 3 bản kết bài đoạn trích Trao duyên hay nhất, qua bài viết này các bạn có thể hiểu hiểu rõ hơn cách làm một kết bài và còn có thể tham khảo thêm được nhiều kiểu kết cho bài văn của mình thêm độc đáo. Mời các bạn cùng xem các cách kết bài dưới đây nhé! Nội dungKết bài đoạn trích Trao Duyên – Bài mẫu 1Kết bài đoạn trích Trao Duyên – Bài mẫu 2Kết bài đoạn trích Trao Duyên – Bài mẫu 3 Nguyễn Du là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, và tấm lòng đồng cảm bao la của nhà nhân đạo ấy đã được lột tả rõ nét trong trích đoạn Trao duyên. Tưởng như đằng sau mỗi dòng thơ, ta nghe thấy cả trái tim thương xót mà Nguyễn Du muốn giành cho nàng Kiều tài hoa bạc mệnh. Nghệ thuật miêu tả tâm lí, nắm bắt nội tâm tài tình của Nguyễn cũng là một minh chứng cho sự thấu hiểu, trân trọng Nguyễn Du xót thương cho người con gái đang xem Kết bài đoạn trích Trao Duyên Top 3 bài mẫu – Văn mẫu 10 hay nhất Kết bài đoạn trích Trao Duyên – Bài mẫu 2 Đoạn trích Trao duyên một lần nữa khiến người đọc càng thêm đồng cảm, trân trọng, xót xa cho thân phận đầy bi kịch của nàng Kiều. Đồng thời qua đó, tiếng khóc đau đớn lòng của Thúy Kiều như lời tố cáo đanh thép mà tác giả muốn bóc trần về xã hội phong kiến – chính guồng quay khắc nghiệt của nó đã cướp đi tuổi xuân và hạnh phúc chân chính mà người con gái bạc mệnh ấy xứng đáng được nhận. Kết bài đoạn trích Trao Duyên – Bài mẫu 3 Không có một tấm lòng đồng cảm, không có một trái tim nhân đạo bao la, Nguyễn Du không thể viết nên những vần thơ đau đớn lòng như thế. Đoạn trích Trao duyên vì thế mà có lẽ được xem là đoạn trích xót xa, nhói lòng nhất trong kiệt tác Truyện Kiều. Đăng bởi Sài Gòn Tiếp Thị Chuyên mục Lớp 10,Ngữ Văn 10 Back to top button
kết bài đoạn trích trao duyên